Pages

Thứ Ba, 30 tháng 4, 2013

Một Nén Hương Cho Những Người Nằm Xuống: Những Cái Chết Của 15 Vị Tướng QLVNCH Từ 1955 Đến Trước & Sau Quốc Hận 30/4/1975


NHỮNG CÁI CHẾT CỦA 15 VỊ TƯỚNG QLVNCH

ToQuocGhiOn4
THIẾU TƯỚNG TRÌNH MINH THẾ
Sinh năm 1922, tỉnh Tây Ninh  Việt Nam . Ngày 3-5-1955, trong lúc đang theo dõi các đơn vị của mình  (quân đội Cao Đài) phối hợp với quân đội chính phủ tấn công lực lượng  Bình Xuyên ở khu cầu Tân Thuận, tướng Trình minh Thế đứng trên một xe  jeep tại dốc cầu, phía bên Sàigòn. Giữa tiếng nỗ của nhiều loại súng  cách xa nơi ông đứng khoảng hơn 100m, có một viên đạn duy nhất không rõ  ai bắn, đã trúng ngay đầu tướng Trình Minh Thế làm ông chết tại chỗ.

Cái chết chẳng ai ngờ của thiếu  tướng Trình Minh Thế vừa làm đau lòng, lẫn đau đầu cho người sống. Kẻ  nổ phát súng ấy là ai? Và tại sao? Từ năm 1955 cho đến nay, 2010, đã có  nhiều bài viết (kể cả sách) đưa ra các câu trả lời khác nhau về “thủ  phạm” bắn tướng T.M.T., nhưng hầu hết các tác giả đó đều dựa trên sự suy  luận mà không đưa ra được một chứng tích nào về văn bản, chứng từ, hoặc  chứng nhân v.v… Duy nhất có một người tự nhận mình là kẻ tổ chức ám sát  tướng Trình Minh Thế. Ông ta đã từng lập một lời thề, sẽ giết tướng  Trình Minh Thế để trả thù cho một vị chỉ huy mà ông ta kính trọng đã bị  tướng Trình Minh Thế tổ chức giết chết. Tuy ông nầy cũng chẳng trưng ra  được chứng tích nào, nhưng nhận thấy lời ông kể nghe có lý hơn các câu  trả lời từ trước đến nay. Chúng tôi xin phép được trích đăng lại từ  nhiều nguồn tham khảo ở sách, báo tiếng Việt ở Mỹ có nói đến người nhận  mình giết tướng Trình Minh Thế.
…”Năm 1951, thiếu tá Antoine  Savani là Trưởng Phòng Nhì, làm xếp an ninh mật thám của Phủ Toàn Quyền  Pháp trên khắp ba nước Việt-Miên-Lào. Ông nầy rất kính trọng thiếu tướng  Charles Chanson (1902-1951) nguyên Tư Lệnh quân đội Pháp tại Nam Việt.
Ngày 13-7-1951, Thủ Hiến Nam Việt là ông Thái Lập Thành (1896-1951) cùng với thiếu tướng Charles  Chanson đến thị xã Sa Đéc dự lễ diễn binh mừng các chiến thắng vùng Tiền  Giang. Hai ông xuống xe đứng chào cờ trước khán đài chính. Bỗng một  bóng người mặc quân phục vạch đám đông dự lễ chạy thật nhanh đến chổ  chào cờ, vừa chạy vừa đưa tay vào túi áo (rút chốt quả lựu đạn). Lúc đến  trước mặt hai vị quan khách chính, người nầy đứng nghiêm và đưa tay lên  chào cũng là lúc quả lựu đạn phát nổ. Sự việc xảy ra quá nhanh, không  ai kịp có một phản ứng nào cả. Người mang lựu đạn bị xé làm hai, nằm bên  cạnh hai xác người đang thoi thóp là các ông Thái lập Thành và tướng  Charles Chanson. Gần đó hai sĩ quan Pháp cũng bị thương nặng. Những  người bị thương được đưa vào một quân y viện gần đó, nhưng vài giờ sau  thì cái chết đã đến với ông Thái lập Thành và tướng Charles Chanson.
Thiếu tá Antoine  Savani gần như nổi điên vì cuộc ám sát vừa kể. Qua điều tra, được biết  kẻ ám sát là một thanh niên tên Phạm văn Út (1925-1951) là con nuôi của  đại tá Văn Thành Cao (1924- ?), Tư Lệnh quân đội Cao Đài vùng Đồng Tháp  Mười. Ngoài ra, còn có tin báo cho phòng nhì Pháp biết: Đại tá Trình  Minh Thế ở Chiến Khu Lò Gò (dưới chân núi Bà Đen, Tây Ninh) cho tổ chức  trọng thể lễ truy điệu và tôn vinh anh Phạm Văn Út như một anh hùng  kháng chiến của quân đội Cao Đài. Qua các nguồn tin thu nhận được, thiếu  tá Antoine Savani cho rằng thủ phạm là ông Trình Minh Thế và thề sẽ  giết ông nầy bằng mọi giá.
Khoảng năm 1994, gần 40 năm sau  ngày tướng Trình Minh Thế bị ám sát (1955), ông Antoine Savani đã về  hưu từ lâu với cấp đại tá và cũng đã già. Lúc gần chết vì bệnh tim, ông  ta trăn trối những lời sau cùng về cái chết của tướng Trình Minh Thế.  Những lời kể của ông Antoine Savani được phỏng vấn và ghi chép bởi ông  Jean Lartéguy (người sau nầy viết cuốn “Le Mal Jaune”, bản tiếng Anh là  “Yellow Fever”). “…Chính tôi đã giết Trình Minh Thế. Dù không tự tay cầm súng nhưng  tôi là người tổ chức tất cả. Thế bị giết bởi một viên đạn do người thân  tín của tôi nấp từ phía sau bắn tới, không phải từ dưới tàu bắn lên.  Người bắn chẳng có tên tuổi gì, nói đúng ra, chỉ biết là cấp trung úy.  Sở dĩ tôi phải giết Thế là để báo thù cho tướng Chanson mà tôi đã từng  thề. Trong tất cả các thủ lãnh quân sự ở trong Nam thì Thế là người nguy  hiểm nhất, có nhiều tham vọng nhất, và cũng là người khôn ngoan nhất.  Lansdale* quả có mặt tinh đời khi chọn Thế … “*(Đại Tá Edward Lansdale ,  1908-1987, về hưu với cấp thiếu tướng)
TRUNG TƯỚNG ĐỖ CAO TRÍ
Trung Tướng Đỗ cao Trí Sinh ngày 20-11-1929, làng Bình Tước tỉnh Biên  Hòa Việt Nam , nguyên là Tư Lệnh Quân Đoàn III/ Quân Khu III. Sáng ngày  23-2-1971, trên cương vị Tư Lệnh Hành Quân Toàn Thắng 1/71, ông chủ tọa  cuộc họp tham mưu tại Bộ tư lệnh Tiền phương QĐIII/ QK III tại căn cứ  Trảng Lớn, quận Châu Thành, tỉnh Tây Ninh như thường lệ. Sau buổi họp,  khoảng 09:30 giờ, ông dùng trực thăng bay về hướng bắc tỉnh Tây Ninh để  đến Dambe (một thị trấn nhỏ của Kampuchia) nơi lực lượng xung kích QĐ  III của đại tá Trần quang Khôi đang chờ. Trực thăng chỉ huy của Trung  Tướng Đỗ cao Trí rời khỏi Trảng Lớn khoảng bốn phút thì bùng nổ ở trên  không. Địa điểm tai nạn khoảng 7km bắc- tây-bắc thị xã Tây Ninh. Ngoài  tướng Đỗ cao Trí bị tử thương còn có hai phi công (chỉ biết tên một  người là đại uý Thành), hai xạ thủ và cơ khí phi hành (không rỏ danh  tánh); trung tá Sỹ thuộc Trung Tâm Hành Quân QĐ III; trung tá Châu, Chỉ  huy phó Truyền tin QĐ III; đại úy Tuấn, sĩ quan tuỳ viên; nhà báo Mỹ  (gốc Pháp) Francoi Sully. Sự ra đi đột ngột của tướng Đỗ cao Trí cũng để lại nhiều câu hỏi nhức  đầu cho hậu thế. Gần 40 năm qua, đã có khá nhiều bài viết của người  Việt bàn tán và nhận xét về cái chết nầy. Không có ai đưa ra được các  chứng cứ nào có sức thuyết phục để dư luận chấp nhận là hợp lý, hợp tình  hơn cả. Tuy nhiên tướng Đỗ cao Trí đi vào nơi khuất bóng trong lúc ông  đang chiến thắng dồn dập (70-71) ở bên vùng biên giới Kampuchia. Có tin  ông sắp ra nắm QĐ I để xoay chuyển tình huống mặt trận biên giới Lào,  vậy mà ông ra đi! Đó là điều làm người đời sau thắc mắc.
THIẾU TƯỚNG NGUYỄN VĂN HIẾU
Sinh ngày 23-6-1929, thành phố Thiên Tân, Cộng Hoà Trung Hoa Dân  Quốc. Năm 1949 đang học đại học Aurore ở Thượng Hải thì phải theo gia  đình dọn về Saigon, Việt Nam . Đầu năm 1951, ông theo học khóa 3 Võ Bị  Liên Quân Việt Nam tại Đà Lạt, và tốt nghiệp (hạng hai) ngày 1-7-51 với  cấp bậc thiếu uý.Thiếu Tướng Nguyễn văn Hiếu
Hai mươi năm sau, thiếu uý  Nguyễn văn Hiếu đã là thiếu tướng Tư Lệnh Phó QĐ I (nhậm chức ngày  9-6-1971) và nỗi tiếng là một vị tướng liêm chính. Do có tài năng và đức  độ, nên ngày 10-2-1972, Phó Tổng Thống Trần văn Hương (1902-1982) đề cử  tướng Nguyễn văn Hiếu giữ chức Phụ Tá Đặc Biệt trong Ủy Ban Bài Trừ  Tham Nhũng (tương đương cấp Thứ Trưởng). Ngày 1-10-1973, ông được bổ  nhiệm làm Tư Lệnh Phó QĐ III/ QK III và đã giữ chức vụ nầy qua ba vị Tư  Lệnh Quân Đoàn là Trung Tướng Phạm quốc Thuần, Trung Tướng Dư quốc Đống  (1932-2008), Trung Tướng Nguyễn văn Toàn (1932-2005).
Ngày 2-4-1975, tướng Nguyễn văn  Hiếu được bổ nhiệm chức Tư Lệnh Tiền Phương QĐ III, nhưng chưa kịp nhận  nhiệm sở. Ngày 4-4-1975, khoảng 17:30 giờ (các tài liệu khác thì ghi  buổi trưa khoảng 13:30 giờ) những người đang làm việc tại Bộ Tư Lệnh QĐ  III ở Biên Hoà bổng nghe một tiếng súng nổ trong văn phòng thiếu tướng  Nguyễn văn Hiếu (cùng có nguồn tài liệu khác ghi có hai tiếng súng). Lúc  mọi người mở cửa phòng thì thấy tướng Nguyễn văn Hiếu đã ngồi chết gục  tại bàn làm việc, một tay ông để trên bàn và tay còn lại buông thòng  xuống đất nơi có một cây súng nhỏ còn nằm trên sàn nhà (có thể loại súng  P 38). Ông bị chết vì một viên đạn đi xuyên từ cằm lên thái dương (có  vài tài liệu khác ghi viên đạn từ thái dương bắn xuyên lên đỉnh đầu và  phá một lỗ trên trần nhà), nhưng chẳng có ai hiểu được nguyên nhân ông  bị chết là do ngộ sát, tự sát hoặc bị ám sát. Vài ngày sau cái chết của  tướng Nguyễn văn Hiếu, chính phủ ban đầu công bố là ông tự sát, nhưng  sau đó đã cải chánh và đổi thành ngộ sát, bị cướp cò lúc đang lau súng.
Ba mươi năm sau cái chết bí ẩn của tướng Nguyễn văn Hiếu, có rất  nhiều người vẫn không tin ông bị cướp cò súng bởi vì ông là người sưu  tập và rất cẩn thận về súng. Có người còn quả quyết tướng Hiếu bị ám sát  chết bởi những kẻ tham nhũng. Bọn nầy mượn gió bẻ măng để “giết người  bịt miệng” lúc ngọn sóng Đỏ đang tràn tới. Nhưng cũng có người cho rằng  một thế lực khác đã gây ra cái chết nầy. Thế lực đó đã biết được một kế  hoặch bí mật giữa các tướng Nguyền văn Hiếu, Nguyễn khoa Nam, Lê văn  Hưng, Trần văn Hai ở QĐIV/ QKIV, là các vị nầy sẽ tái phối trí và tổ  chức lực lượng quân sự tử thủ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long nếu thủ đô  Sài gòn rơi vào tay quân Cộng Sản. Và thế lực đó không muốn cuộc chiến  kéo dài thêm nữa khi họ đã công khai bắt tay với Việt Cộng vì quyền lợi  của họ.
CHUẨN TƯỚNG TRƯƠNG QUAN ÂN
Sinh năm 1932, là thủ khoa khóa 7 Trường Võ Bị Liên Quân Việt Nam ở  Đà Lạt. Ông nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh/ QĐII/ QKII từ ngày  24-11-1966. Vợ ông là bà Dương thị kim Thanh (Huế), nguyên chuẩn uý  thuộc binh chủng Nhảy Dù nhưng làm việc tại Tổng Y Viện Cộng Hòa. Nhân  dịp bà đi thăm và tặng quà cho các chiến sĩ và gia đình đang đồn trú tại  vùng biên giới tây bắc tỉnh Pleiku, ngày 8-9-1968, Ông cùng bà đi chung  một chiếc trực thăng loại H-34 (Choctaw) của Không Quân VNCH đến thăm  các căn cứ tiền đồn. Sau khi thăm được vài nơi, trực thăng chở ông bà  lại cất cánh để đến nơi khác thì máy bay phát nổ ngay trước mắt các binh  sĩ và gia đình. Tất cả những người trên trực thăng đều tử thương, trong  đó có Chuẩn Tướng Trương quang Ân và vợ là bà Dương thị Kim Thanh.
THIẾU TƯỚNG NGUYỄN VIẾT THANH
Sinh năm 1931, Lâm Đồng, tốt nghiệp khóa 4 Trường Võ Bị Liên Quân  Việt Nam, Đà Lạt, nguyên là Tư Lệnh QĐIV/ QKIV từ ngày 1-7-1968. Hành  quân Cửu Long 1 (bắt đầu ngày 9-5-1970) là cuộc hành quân cấp quân đoàn  vượt qua đất Cam Bốt nhằm giải cứu, hồi hương hàng chục ngàn đồng bào  thoát sự tàn sát của của dân Cam Bốt. Trên cương vị là Tư Lệnh Hành Quân  Cửu Long 1, thiếu tướng Nguyễn viết Thanh thường xuyên có mặt trên máy  bay trực thăng để theo dõi và đôn đốc các đơn vị. Ngày 1-5-1970, chiếc  trực thăng chỉ huy của tướng Thanh đã vở tan trên không vì bị một chiếc  trực thăng võ trang của Mỹ đụng vào. Tai nạn xảy ra trên bầu trời tỉnh  Kiến Tường. Tất cả số người có mặt trên hai chiếc trực thăng đều tử nạn.
CHUẨN TƯỚNG PHAN ĐÌNH SOẠN
Sinh ngày 16-11-1929, Huế, tốt nghiệp khóa 1 Trường Sĩ Quan Việt Nam  Thủ Đức, nguyên Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh QLVNCH từ ngày 1-10-1968 đến  31-1-1972. Ông được bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Phó QĐI/ QKI vào ngày  1-2-1972, thay thiếu tướng Nguyễn văn Hiếu. Ngày 25-2-1972, chuẩn tướng  Phan đình Soạn đi máy bay trực thăng ra thăm một chiến hạm Mỹ, cách Đà  Nẵng khoảng 20km ngoài khơi biển Đông Việt Nam. Lúc cất cánh trở về,  trực thăng của ông vì sơ suất nên đụng vào trụ ăng ten của chiến hạm.  Tuy bị hư hại nhưng trực thăng vẫn gắng bay về và bị rớt gần bán đảo Sơn  Trà, quận Ba thành phố Đà Nẳng. Toàn bộ người trên máy bay đều chết và  tìm được thi hài. Cùng đi với tướng Phan đình Soạn có đại tá Ngô hân  Đông, nguyên Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh QĐI/ QKI.
CHUẨN TƯỚNG NGUYỄN HUY ÁNH
C/Tướng Nguyễn Duy Ánh – người đứng giữa
Sinh tháng 7-1934, tốt nghiệp trường Không Quân Phi Hành Salon de  Provence 1953, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Không Quân QĐIV/ QKIV cho đến  năm 1972. Chuẩn Tướng Ánh tử nạn phi cơ trong một phi vụ quan sát tình  hình, vì ghi nhận một phi cơ L19 bị rớt nên ông dùng trực thăng của ông  đến câu phi cơ L19 và rủi ro xảy ra tai nạn. Ông tử nạn lúc 17giờ ngày  27-2-1972.
CHUẨN TƯỚNG NGUYỄN VĂN ĐIỀM
Sinh ngày 30-6-1929, tốt nghiệp  khóa 4 Trường Bộ Binh Thủ Đức. Ông giữ chức vụ Trung đoàn trưởng của  SĐ1/BB và Tư Lệnh Phó trước khi được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1/BB,  năm 1973. Ông được hăng cấp Chuẩn tướng tháng 4-1974. Trực thăng của ông  bị rơi gần bờ biển Sa Huỳnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi, vào 8giờ tối ngày  28-3-1975. Ông là vị tướng bị tử nạn cuối cùng trong cuộc chiến Việt Nam
NHỮNG VỊ TƯỚNG TỰ SÁT:
CHUẨN TƯỚNG LÊ NGUYÊN VỸ
Sinh ngày 22-8-1933, tỉnh Sơn Tây, học khoá 2 Trường Võ Bị Địa Phương  Trung Việt, tốt nghiệp với cấp bậc chuẩn uý hiện dịch. Trước ngày  30-4-1975, ông nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 5/BB. Ngay sau lúc nghe được  lời kêu gọi buông súng của ông Dương văn Minh, chuẩn tướng Lê nguyên Vỹ  đã tự sát trước sân cờ của bản doanh Bộ Tư Lệnh SĐ5/BB ở Lai Khê tỉnh  Bình Dương.
THIẾU TƯỚNG PHẠM VĂN PHÚ
Sinh năm 1929, tỉnh Hà Đông, học khóa 8 Trường Võ Bị Liên Quân Việt  Nam, Đà Lạt, nguyên là Tư Lệnh QĐII/QKII từ tháng 11-1974. Trong cuộc  họp ở Cam Ranh ngày 14-3-1975, Tổng Thống VNCH Nguyễn văn Thiệu  (1924-2001) lệnh cho tướng Phạm văn Phú rút quân khỏi các tỉnh Kontum,  Pleiku về vùng duyên hải QĐ II. Cuộc lui quân nầy diễn tiến như thế nào  thì lịch sữ đã cho thấy. Ngày 29-4-1975, tại nhà riêng ở Sàigòn, thiếu  tướng Phạn văn Phú đã uống một liều thuốc độc thật mạnh nhưng gia đình  phát giác và đưa ông vào bệnh viện cứu chữa. Trưa ngày 30-4-1975, ông  tỉnh lại và thều thào hỏi vợ về tình trạng lúc bấy giờ. Sau khi nghe vợ  cho biết ông Dương văn Minh đã đầu hàng và Việt Cộng vừa vô dinh Độc  Lập. Nghe đến đây, thiếu tướng Phạm văn Phú thở hắt ra. Đó cũng là hơi  thở cuối cùng của ông.
CHUẨN TƯỚNG TRẦN VĂN HAI
Sinh năm 1929, Cần Thơ, tốt nghiệp khoá 7 Trường Võ Bị Liên Quân, Đà  Lạt. Ông nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 7/BB thuộc QĐIV/ QKIV từ ngày  1-3-1974. Trước đó ông cũng từng đảm trách các chức vụ như Tỉnh Trưởng  tỉnh Phú Yên (năm 1965), Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Trung  Ương (năm 1967), Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia (năm 1968), Chỉ Huy  Trưởng Trung tâm Huấn Luyện Lam Sơn kiêm Chỉ Huy Trưởng Huấn Khu Dục Mỹ  (năm 1971), Tư Lệnh Phó QĐII/ QKII và kiêm nhiệm Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ  Huy Hành Quân Chiến Thuật QĐII/QKII (năm 1972).
Trong ngày 30-4-1975, khoảng 17:00 giờ tại Bộ Tư Lệnh SĐ7/BB ở Mỹ  Tho, chuẩn tướng Trần văn hai đã uống thuốc độc ngay trong văn phòng của  mình. Vị sĩ quan tuỳ viên sau khi phát giác chủ tướng của mình đã quyên  sinh, đã đưa ông qua Tiểu đoàn 7 Quân Y mong cứu được ông, nhưng mọi nổ  lực đều quá muộn. Buổi chiều trong ngày, trước khi uống thuốc độc chuẩn  tướng Trần văn Hai trao cho vị sĩ quan tuỳ viên số tiền 70.000 đồng nhờ  đưa cho người mẹ già của mình. Đây cũng là tháng lương cuối cùng của  một người lính suốt đời liêm chính.
CHUẨN TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG
Sinh năm 1933, Hóc Môn, Gia Định, tốt nghệp khoá 5 Trường Sĩ Quan Trừ  Bị Thủ Đức, nguyên là Tư Lệnh Phó QĐIV/ QKIV từ ngày 1-11-1974. Ông  cũng từng là Tư Lệnh Sư Đoàn 5/BB (ngày 14-6-1971), Tư Lệnh Phó QĐIII/  QKIII Đặc trách Lực Lượng Phản Ứng Cấp Thời (ngày 4-9-1972), Tư Lệnh Sư  Đoàn 21/BB (ngày 9-6-1973).
Khoảng 19:30 giờ ngày 30-4-1975, tại tư dinh của mình ở Cần Thơ,  Chuẩn Tướng Lê văn Hưng sau khi nói những lời từ biệt với các thuộc cấp,  dặn dò khuyên nhủ bạn đời là bà Phạm thị kim Hoàng, ông vào văn phòng  riêng và khóa chặt cửa lại mặc dù tiếng khóc than nức nở kêu gào của  người vợ. Ông đã dùng súng tự sát vào lúc 20:45 giờ ngày 30-4-1975.
THIẾU TƯỚNG NGUYỄN KHOA NAM
Sinh ngày 23-9-1927, Đà Nẳng (chánh quán An Cựu Tây, quận Hương Thủy,  tỉnh Thưà Thiên), tốt nghiệp khóa 3 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Đời  binh nghiệp của ông đã trải qua những chức vụ như: Tiểu Đoàn Trưởng TĐ5  Nhảy Dù (năm 1965), Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù (năm 1967), Tư Lệnh  Sư Đoàn 7/BB (tháng 1-1970) và Tư Lệnh Quân Đoàn IV/ Quân Khu IV (tháng  11-1974) với cấp thiếu tướng.
Ông đã dùng súng tự sát trong tư dinh của mình ở Cần Thơ khoảng 07:30 giờ ngày 1-5-1975.
CHẾT TRONG TÙ CỘNG SẢN VIỆT NAM:
THIẾU TƯỚNG ĐOÀN VĂN QUẢNG
* Sinh năm 1923, xuất thân Thiếu Sinh Quân Việt Nam .
* 1960: Thiếu tá, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Hành Quân/ Đệ Ngũ Quân Khu (đến năm 1962 là QĐ IV vùng 4 chiến thuật)
* 1961: Trung tá, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân/ Đệ ngũ Quân Khu.
* 1962: Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21/BB. Tháng 10-1963, Tư Lệnh Phó SĐ9/BB.
* 7-11-1963: Đại Tá Tư Lệnh SĐ9/BB.
* 1964: Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biêt.
* 1966: Chuẩn tướng. 1971: Thiếu tướng.
* 1972: Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.
Sau ngày 30-4-1975, Việt Cộng  đưa đi tập trung khổ sai. Thiếu tướng Đoàn văn Quảng chết trong tù Cộng  sản ở trại khổ sai Nam Hà (Hà nam Ninh) ngày 6-3-1984.
CHUẨN TƯỚNG BÙI VĂN NHU
Sinh ngày 26-12-1920 tại quận Bến Lức tỉnh Long An, bắt đầu phục vụ ngành Cảnh Sát Quốc Gia năm 1939 từ ngạch Thư Ký phiên dịch.
* Từ 1949 đến 1952, Biên Tập Viên Chánh Sở Trung Ương Tình Báo.
* 1952-1958: Quận Trưởng Hạng 4 Thanh Tra Tổng Nha CSQG
* 1958-1960: Quận Trưởng Hạng 3 Giám Đốc TTHL/CS & CA
* 1960- chức vụ Phó Tổng Giám Đốc Tổng Nha CS.
* 1971-1975: Đại tá CSQG, Tư Lệnh Phó Tổng Nha
* 01-2-1975: Chuẩn tướng CSQG, Tư Lệnh Phó Tổng Nha CS.
Sau ngày 30-4-1975, Việt Cộng đưa đi tập trung khổ sai và chết tại trại tù Nam Hà, ngày 15-3-1984.
BĐQ Đỗ Như Quyên

Không có nhận xét nào: