Pages

Thứ Ba, 17 tháng 1, 2012

Liệu Trung Cộng có trở thành một siêu cường?

Image: Poeloq


Trung Cộng Không Phải Là một Siêu Cường

Bùi Mẫn Hân (Minxin Pei) – PBD dịch

…và cũng sẽ không phải là một siêu cường, theo lời Bùi Mẫn Hân thì thực trạng chính trị và kinh tế của nước này mong manh hơn nhiều so với vẻ bên ngoài.

Khi mà Hoa Kỳ xem chừng như cứ tiếp tục suy thoái trong cương vị siêu cường duy nhất của thế giới, thì câu hỏi hợp thời được đặt ra là nước nào sẽ là siêu cường mới? Câu trả lời có vẻ gần như đồng nhất là Trung Cộng. Trong tư thế sẵn sàng để vượt qua Nhật Bản để trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới vào năm 2010, Trung Quốc(1) có đủ tất cả các yếu tố cần thiết của một cường quốc–một nền tảng kỹ nghệ lớn, một nước mạnh, một quân đội có vũ trang nguyên tử, một lãnh thổ lớn như cả một lục địa, một ghế thường trực trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc và một dân số đông đảo–được xem là nước ngang hàng với Chú Sam(2) hợp lý và hội đủ điều kiện nhất. Thật ra, Trung Cộng được nhiều người cảm thấy đã trở thành siêu cường thứ nhì của thế giới đã lên đến mức một số người ở Tây Phương đã đề nghị lập ra G2–Hoa Kỳ và Trung Cộng–là một tổ chức hợp tác mới để giải quyết các vấn đề cấp bách nhất của thế giới.

Chắc chắn sở dĩ có những người thấy Trung Cộng là siêu cường thứ nhì là vì, ít nhất là một phần, mức độ vươn lên phi thường của nước này trong ba thập niên qua. Nhờ mức tăng trưởng kinh tế gần hàng chục phần trăm kể từ năm 1979, Trung Cộng đã tự biến đổi từ một xã hội cô lập, nghèo khó và nản chí thành một cường quốc mậu dịch toàn cầu tự tin và thịnh vượng. Với GDP là $4.4 ngàn tỷ và tổng số mậu dịch ngoại thương là $2.6 ngàn tỷ trong năm 2008, Trung Cộng đã tự biến thành một cường quốc kinh tế hàng đầu trên thế giới.
Tuy nhiên, dù có các thành quả không thể chối cãi được như thế, có lẽ còn quá sớm để xem Trung Cộng là siêu cường thứ nhì của thế giới. Trung Cộng chắc chắn đã trở thành một cường quốc, một vị thế được dành cho những nước không những bảo vệ hiệu quả chủ quyền của họ mà còn có ảnh hưởng đáng kể đối với các vấn đề kinh tế và an ninh toàn thế giới. Nhưng một cường quốc không nhất thiết là một siêu cường. Trong lịch sử thế giới, chỉ có một nước–Hoa Kỳ–là đã thực sự có đầy đủ mọi khả năng của một siêu cường: một nền kinh tế tân tiến về kỹ thuật, một quân đội có kỹ thuật cao, một quốc gia tổng hợp hoàn toàn, các lợi thế quân sự và kinh tế không đâu sánh bằng so với những nước có thể cạnh tranh, khả năng cung cấp công ích toàn cầu và một ý thức hệ quyến rũ. Ngay cả trong thời hưng thịnh nhất thì Liên Xô cũ nhiều lắm cũng chỉ là một siêu cường một chiều–có khả năng cạnh tranh với Hoa Kỳ về mặt quân sự, nhưng thiếu tất cả mọi phương tiện thiết yếu khác của sức mạnh quốc gia.
Trong khi đó, muốn trở thành siêu cường thứ nhì thì Trung Cộng phải giải quyết các khó khăn thực sự to lớn. Ngay cả khi sản lượng kinh tế của họ dự liệu sẽ vượt hơn $5 ngàn tỷ trong năm 2010, lợi tức đầu người tại Trung Cộng vẫn sẽ chỉ ở mức dưới 4.000$, khoảng một phần mười mức lợi tức đầu người của Hoa Kỳ và Nhật Bản. Hơn phân nửa dân số của Trung Cộng vẫn sống trong làng mạc, phần lớn không có nước uống an toàn, dịch vụ y tế cơ bản, hay giáo dục tử tế. Với mức thành thị hóa gia tăng khoảng 1 phần trăm mỗi năm, sẽ cần thêm ba thập niên nữa thì số dân quê của Trung Cộng mới giảm xuống còn khoảng một phần tư dân số. Một khi mà số dân quê của Trung Cộng vẫn còn quá đông, với hàng trăm triệu dân quê có lợi tức thấp sống lây lất bên lề xã hội tân tiến ngày nay thì nước này khó mà trở thành một siêu cường thực sự.
Nếu muốn tin là Trung Cộng sẽ là siêu cường kế tiếp thì cũng cần phải mặc nhiên cho là mức tăng trưởng vượt bực của Trung Cộng sẽ vẫn tiếp diễn. Tiếc thay, nếu chỉ dựa vào thành quả quá khứ của bất cứ nước nào để tiên đoán viễn ảnh tương lai của nước đó thì thật là chuyện đầy rủi ro. Dù mức hiệu năng tăng trưởng kinh tế của Trung Cộng thật đáng nể kể từ năm 1979, không thể nào bảo đảm được là nước này có khả năng duy trì mức tăng trưởng đó mãi. Thực ra, rất có thể mức tăng trưởng của Trung Cộng sẽ giảm đi đáng kể trong hai thập niên tới và còn giảm nhiều nữa. Nhiều yếu tố thuận lợi về cơ cấu, chẳng hạn như lợi thế nhân khẩu (từ số dân tương đối trẻ hơn), yếu tố được đón nhận hầu như không giới hạn vào các thị trường toàn cầu, mức tiết kiệm cao và ít phí tổn môi trường, sẽ dần dần không còn nữa. Cũng như Nhật Bản, Trung Cộng đang trở thành một xã hội già nua hơn, một phần không nhỏ là vì nhà cầm quyền áp đặt nghiêm ngặt chính sách chỉ được phép có một con (các gia đình thành thị chỉ được có một con duy nhất). Tỷ lệ số dân từ 60 tuồi trở lên sẽ là 17 phần trăm tính đến năm 2020, và tình trạng lão hóa này sẽ khiến gia tăng phí tổn y tế và hưu bổng trong khi giảm bớt số tiết kiệm và đầu tư. Tuy không biết chắc được tầm mức giảm thiểu tiết kiệm và mức gia tăng chi tiêu y tế và hưu bổng, tác động kết hợp của các yếu tố này có thể tác hại nhiều đến mức tăng trưởng kinh tế.
Một trở ngại khác cho mức tăng trưởng trong tương lai của Trung Cộng chính là mô hình tăng trưởng bằng cách xuất cảng của nước này. Là một nước có lợi tức ở cấp trung và ít nhu cầu trong nước, Trung Cộng đã phải dựa vào xuất cảng để tăng trưởng. Tuy sách lược này, vốn đã được áp dụng thành công tại Đông Á, đã giúp nhiều cho Trung Cộng trong hai thập niên qua, nay hoàn toàn không chắc được mô hình này có còn áp dụng được trong tương lai hay không. Là nước xuất cảng lớn thứ nhì của thế giới (tuy theo dự liệu thì Trung Cộng sẽ qua mặt Đức để trở thành nước xuất cảng lớn nhất vào năm 2010), Trung Cộng đang gặp phải khuynh hướng bảo vệ hàng nội hóa chống lại trong các thị trường chính của họ (Hoa Kỳ và Âu Châu). Đặc biệt là chính sách duy trì giá tiền tệ của họ thấp để hàng xuất cảng của họ dễ cạnh tranh vì rẻ thì nay đang bị cho là càng ngày càng làm mất quân bình mậu dịch toàn cầu và gây suy yếu cho các nền kinh tế của những nước bạn hàng mậu dịch.
Không như các nước mậu dịch láng giềng của họ tương đối nhỏ tại Đông Á, vì là một nước quá lớn nên Trung Cộng có khả năng gây gián đoạn kinh tế nặng nề cho các nước bạn hàng mậu dịch của họ. Nếu nhà cầm quyền Trung Cộng không từ bỏ sách lược duy thương(3) thì không thể loại bỏ được chuyện có thể xảy ra phản ứng toàn cầu chống lại hàng xuất cảng của Trung Cộng. Vì mức tăng trưởng ròng về xuất cảng đã giúp Trung Cộng tăng trưởng thêm ít nhất là hai phần trăm trong năm năm qua, khi giảm bớt hàng xuất cảng của Trung Cộng trong tương lai thì có nghĩa là mức tăng trưởng chung cũng thấp hơn. Muốn chắc chắn, Trung Cộng có thể bù đắp mức giảm nhu cầu ở ngoại quốc bằng cách tăng tiêu thụ trong nước. Nhưng tiến trình này đòi hỏi phải thay đổi toàn bộ sách lược tăng trưởng của Trung Cộng, một bước thật khó khăn và vất vả về mặt chính trị mà nhà cầm quyền đương nhiệm đã không thể áp dụng.
Một yếu tố thứ ba kềm chế mức tăng trưởng trong tương lai của Trung Cộng là tình trạng suy thoái môi trường. Trong ba thập niên qua, Trung Cộng đã bỏ mặc môi trường để tập trung vào việc tăng trưởng kinh tế và đã đưa đến các hậu quả thê thảm. Ngày nay, tình trạng ô nhiễm không khí và nước gây tử vong khoảng 750.000 người mỗi năm. Phí tổn gộp chung do ô nhiễm gây ra là bằng khoảng 8 phần trăm the GDP(4). Các con số ước tính chính thức cho thấy là nếu muốn giảm bớt tình trạng duy thoái môi trường thì cần phải đầu tư thêm 1,5 phần trăm GDP mỗi năm. Tình trạng thay đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng nặng nề đến các nguồn cung cấp nước của Trung Cộng và gia tăng hạn hán ở miền bắc. Đường lối tăng trưởng như vẫn thường áp dụng hiện nay, vốn dựa vào nguồn năng lượng rẻ và ô nhiễm không tốn tiền, sẽ không còn kéo dài được lâu nữa.
Ngoài các viễn ảnh kinh tế bất trắc, chuyện Trung Cộng vươn lên thành siêu cường sẽ còn bị cản trở vì nhiều yếu tố chính trị. Trước hết và trên hết, các lãnh tụ Trung Cộng sẽ thấy chính họ phải đi tìm một đường hướng toàn cầu cho tương lai và một sứ mạng chính trị. Các quốc gia không trở thành siêu cường chỉ vì họ có được cương lực(5). Việc áp dụng sức mạnh phải đi kèm với các tư tưởng và đường hướng tương lai quyến rũ đại chúng. Hoa Kỳ chưa phải là siêu cường thực sự cho tới khi bước vào Thế Chiến Thứ Hai, dù nước này có đủ tất cả các yếu tố tiên quyết của một siêu cường đã từ lâu trước khi xảy ra vụ Trân Châu Cảng. Khó khăn chính trị của Trung Cộng trong tương lai là liệu họ có thể tìm ra các lý tưởng chính trị và đường hướng tương lai để hướng dẫn việc áp dụng sức mạnh của họ hay không. Vào lúc này, Trung Cộng thịnh vượng về kinh tế nhưng lại khánh tận về ý thức hệ. Họ không tin vào chủ nghĩa cộng sản mà cũng không tin vào nền dân chủ tự do. Ngoài việc tước đi một nguồn nhu lực(6) của Trung Cộng, tình trạng thiếu các lý tưởng quyến rũ và đường hướng tương lai cho thế giới cũng làm cho giới lãnh đạo Trung Cộng mang một tư tưởng hướng nội, mà cho đến nay họ vẫn chỉ nói xuông chứ không hề đáp ứng các lời kêu gọi Trung Cộng phải có trách nhiệm quốc tế nhiều hơn.
Không như Hoa Kỳ, Trung Cộng sẽ thấy rất khó áp dụng sức mạnh ở ngoại quốc vì thiếu kết hợp chính trị trong nước. Đảng Cộng Sản Trung Hoa có thể đi ngược lại được lời tiên đoán phóng đại trước đây là họ sẽ giãy chết. Nhưng chuyện độc quyền chính trị của đảng này vẫn không hề chắc chắn. Họ bám lấy quyền hành bằng cách có được hiệu năng kinh tế thỏa đáng cũng như đàn áp các thành phần thách thức quyền hành của họ. Khi xã hội Trung Cộng trở nên tinh vi và tự trị hơn, đảng cộng sản sẽ thấy càng ngày càng khó tước đoạt các quyền tham gia chính trị của giai cấp trung lưu trong thành thị. Là một chế độ độc đảng, Đảng Cộng Sản cũng trở nên tham nhũng nội bộ. Trước các thách thức chính trị từ giai cấp trung lưu đang lên và tình trạng suy đồi nội bộ ngày càng nặng thì càng có nhiều triển vọng thay đổi chế độ trong tương lai, một tiến trình có thể bất ngờ, ngay cả bùng nổ dữ dội.
Giới cầm quyền tại Trung Cộng không những chỉ sợ tình trạng khả dĩ chuyển sang dân chủ, mà chủ nghĩa ly khai sắc tộc có thể còn đáng sợ hơn nữa. Xét về mọi khía cạnh thực tế, Trung Cộng không phải là một quốc gia, mà là một đế chế đa quốc có nhiều vùng lãnh thổ rộng lớn của các sắc dân thiểu số chủ trương ly khai (Tây Tạng và Tân Cương). Các rủi ro bị phân tán nội bộ, ngoài vấn đề Đài Loan từ bấy lâu nay, sẽ bắt Trung Cộng phải dành rất nhiều tài nguyên quân sự và an ninh để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Nhược điểm về cơ cấu này làm cho Trung Cộng khó có thể thi triển sức mạnh ở ngoại quốc và yếu thế hơn trước mưu đồ của các nước cạnh tranh có thể lợi dụng các mối căng thẳng sắc tộc của Trung Cộng để trói tay Bắc Kinh.
Về mặt địa lý chính trị, sức mạnh của Trung Cộng cũng bị nhiều giới hạn nặng nề không kém. Trong khi Hoa Kỳ may mắn vì các nước láng giềng của họ đều yếu, Trung Cộng lại phải đối phó với những nước cạnh tranh hùng mạnh trong vùng–Ấn Độ, Nhật Bản, và Nga. Ngay cả các nước láng giềng hạng trung của Trung Cộng như Nam Triều Tiên, Indonesia, và Việt Nam, cũng không phải là những nước dễ nuốt. Việc Trung Cộng vươn lên đã đưa đến biện pháp điều chỉnh lại thế địa lý chính trị trong vùng nhằm kềm chế tham vọng và tầm với của Trung Cộng. Thí dụ, Hoa Kỳ đã mở rộng nhiều mối hợp tác chiến lược của họ với Ấn Độ để New Delhi có thể đương đầu với Bắc Kinh. Nhật Bản cũng gia tăng viện trợ kinh tế cho Ấn Độ với cùng mục đích chiến lược đó. Ngay cả Nga, nước hợp tác cơ hội với Trung Cộng trong lúc này, cũng vẫn nghi ngại mà đề phòng Trung Cộng. Moscow đã từ chối bán vũ khí tối tân nhất của họ cho Bắc Kinh và giới hạn mức cung cấp năng lượng cho Trung Cộng. Dù có lên tiếng chống Hoa Kỳ như thế nào đi nữa, Nam Triều Tiên cũng vẫn phải trông cậy vào Hoa Kỳ để được thịnh vượng kinh tế và an ninh. Còn đối với Việt Nam và Indonesia, hai nước Đông Nam Á nghi kỵ nhất về các ý định trong tương lai của Trung Cộng thì cũng đang thận trọng rào trước đón sau. Tuy không muốn công khai làm phật lòng Trung Cộng, họ đã cải tiến đáng kể mối bang giao với Hoa Kỳ và Nhật, những nước ngầm hiểu đang là đối thủ cạnh tranh của Trung Cộng.
Vì sách lược phản quân bình địa lý chính trị này mà Trung Cộng sẽ không thể làm bá chủ Á Châu–một cường quốc hoàn toàn thống trị những nước cạnh tranh trong vùng. Theo định nghĩa thì một nước không thể trở thành siêu cường toàn cầu trừ phi nước đó cũng là bá chủ trong vùng, chẳng hạn như Hoa Kỳ. Là một cường quốc mà xung quanh có những nước láng giềng hùng mạnh và cảnh giác cẩn mật, Trung Cộng phải luôn luôn đề phòng sau lưng trong khi tìm cách thi triển sức mạnh và ảnh hưởng của họ trên trường quốc tế.
Một tư cách như thế–tức là một cường quốc có thế lực ảnh hưởng toàn cầu, nhưng không phải là một siêu cường thống trị–cũng là điều mà không ai nên coi thường. Pax Americana(7) là một trường hợp tình cờ của lịch sử mà nước khác không thể bắt chước được. Thế giới không nên bị ám ảnh nỗi lo sợ là Trung Cộng sẽ trở thành một siêu cường nữa. Thay vì thế, thế giới nên quen dần với một cường quốc Trung Cộng.
Câu hỏi ở đây là: Trung Cộng là một cường quốc như thế nào?
Lạ đời thay, trong khi thế giới đã mặc nhiên nghĩ rằng Trung Cộng sẽ là một siêu cường trong tương lai, thì chính giới lãnh đạo của Trung Cộng mới hiểu rõ hơn về các giới hạn đi liền với sức mạnh của nước họ. Vì thế, Bắc Kinh áp dụng ảnh hưởng mới có của họ hết sức thận trọng, tránh xen vào những chuyện bên ngoài, không muốn hiện diện quân sự trực tiếp ở ngoại quốc, tránh các bổn phận quốc tế tốn kém và sống chung với trật tự kinh tế và an ninh quốc tế do Hoa Kỳ thiết lập và thống lãnh. Dĩ nhiên, Trung Cộng bảo vệ triệt để quyền lợi quốc gia của họ, nhất là chủ quyền của họ. Về những vấn đề liên quan đến mức toàn vẹn lãnh thổ và an sinh kinh tế của họ thì Bắc Kinh hiếm khi ngần ngại phô trương sức mạnh. Nhưng họ dừng lại trước khi dùng sức mạnh quân sự để xây dựng một đế quốc ở hải ngoại.
Do đó trong tương lại trước mặt, nhiều lắm thì Trung Cộng cũng sẽ chỉ là một siêu cường kinh tế nhờ vai trò của họ là một trong các cường quốc mậu dịch lớn nhất thế giới (nếu xét theo nghĩa này thì cả Đức lẫn Nhật cũng phải được xem là siêu cường kinh tế). Nhưng ảnh hưởng địa lý chính trị và quân sự của họ sẽ vẫn bị giới hạn vì những yếu kém bên trong và cạnh tranh từ bên ngoài.
Tuy Trung Cộng sẽ luôn luôn có được một ghế tại bàn quốc tế, nhưng việc họ có sẵn sàng và có khả năng lãnh đạo hay không thì ắt hẳn phải gây thất vọng cho những người muốn Bắc Kinh hành xử như một siêu cường. Vấn đề không phải là Trung Cộng không muốn làm một siêu cường. Sự thật đơn giản ở đây là Trung Cộng hiện không phải là một siêu cường, và trong tương lai cũng sẽ không phải là một siêu cường.
Minxin Pei is the Tom and Margot Pritzker ’72 Professor of Government at Claremont McKenna College. His latest book is ‘China: Trapped Transition (2006).’
Source: http://apac2020.the-diplomat.com/feature/china’s-not-a-superpower/
____________________________
Chú thích của người dịch:
(1) Middle Kingdom, cũng là Trung Cộng
(2) Uncle Sam, cũng là Hoa Kỳ
(3) Mercantilism, tức là chủ nghĩa kiểm soát lãnh vực mậu dịch ngoại thương để chắc chắn phần lợi về mình. Có thể gọi là “chủ nghĩa trọng thương” theo tiếng Tàu nhưng vì “trọng thương” có thể hiểu thành “bị thương nặng” nên người dịch đổi thành “duy thương”.
(4) Gross Domestic Product (Tổng Sản Lượng Quốc Nội)
(5) Hard power, tức là sức mạnh quân sự và kinh tế
(6) Soft power, hay “sức mạnh mềm”, xuất phát từ các yếu tố như giá trị, văn hóa, chính sách và cơ cấu chính trị
(7) Pax Americana thường được dùng để nói chung về nền hòa bình từ sau khi kết thúc Thế Chiến II và nói riêng về ưu thế vượt trội của Hoa Kỳ về quân sự và kinh tế so với những nước khác.

Không có nhận xét nào: