Nguyễn Thu Trâm
Tội ác của chủ nghĩa phát xít đã được thế giới biết rỏ và đã công nhận, nhưng có lẽ tội ác của chủ nghĩa cộng sản vẫn còn ít người trên thế giới biết tới, đó là lý do mà Đài Tưởng niệm Nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản (Victims of Communism Memorial) được xây dựng trong một khuôn viên tại Washington, D.C. Mà theo Quỹ Đài Tưởng niệm Nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản thì mục đích của tượng đài là: “để lịch sử về sự tàn bạo của cộng sản sẽ được dạy cho các thế hệ tương lai”, và được ghi nhận là “để tưởng nhớ hơn 100 triệu nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản”.
Đài Tưởng niệm Nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản được Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush khánh thành vào ngày 12 tháng 6 năm 2007, kỷ niệm 20 năm ngày Tổng thống Ronald Reagan đọc bài diễn văn nổi tiếng “Hãy phá đổ bức tường này” trước Bức tường Berlin.
Trong buổi lễ khánh thành, Tổng thống Bush đã nêu ẩn danh của những người từng là nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản:
“Họ gồm có các nạn nhân Ukraina bị chết đói trong Nạn đói Vĩ đại dưới thời Stalin; hoặc những người Nga bị giết trong các cuộc thanh trừng của Stalin; những người Litva, Latvia và Estonia bị quăng lên xe chở trâu bò và bị đầy khổ sai trong các trại tử thần vùng giá rét của chủ nghĩa Cộng sản Xô Viết. Họ bao gồm những người Trung Hoa bị giết chết trong Đại nhảy vọt và Cách mạng Văn hóa; những người Campuchia bị tàn sát trong những cánh đồng chết của Pol Pot; những người Đông Đức bị bắn chết trong lúc cố trèo qua Bức tường Berlin để tìm tự do; những người Ba Lan bị tàn sát tại rừng Katyn; và những người Ethiopia bị tàn sát trong cuộc “Khủng bố Đỏ”; những người da đỏ Miskito bị giết chết bởi chế độ độc tài Sandinista ở Nicaragua; và những người Cuba, Việt Nam bị chết chìm trong lúc vượt thoát bạo quyền.”
Để kết thúc bài diễn văn khánh thành tượng đài, Tổng thống George W. Bush cũng nói: “Thủ đô Hoa Kỳ chưa từng có đài tưởng niệm nào cho nạn nhân của chế độ cộng sản” và “Trước sự hiện diện của những người, nam cũng như nữ, đã đấu tranh cưỡng lại cái ác và tiếp tay đưa đến sự sụp đổ của đế quốc cộng sản, tôi hãnh diện thay mặt cho nhân dân Hoa Kỳ, nhận lấy Đài Tưởng niệm Nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản, “.
Kính thưa quý vị,
Rỏ ràng, sự ra đời của chủ nghĩa cộng sản là một đại thảm họa của nhân loại. Trước hết, chúng tôi xin thống kê sơ lược số lượng hơn 100 triệu nạn nhân của chế độ cộng sản được phân bổ như sau:
- Liên Xô: 30 triệu người.
- Trung Cộng, 70 triệu.
- Việt Nam, 3 triệu.
- Bắc Hàn, 5 triệu.
- Cam Bốt, 3 triệu.
- Đông Âu, 2 triệu.
- Châu Mỹ La Tinh, 150 000.
- Phi Châu, 2,7 triệu.
- Afganistan, 2,5 triệu.
Sau non một thế kỷ chủ nghĩa cộng sản ra đời, những người cộng sản ở Đông Âu nhận thấy rằng, trên 100 triệu con người đã bị tàn sát để lót đường cho sự hình thành và phát triển của chế độ cộng sản là quá nhiều, nên họ đã quyết tâm từ bỏ chế độ cộng sản, quay trở lại với chế độ tư bản tự do và dân chủ. Tuy nhiên, với bản chất bảo thủ, hiếu chiến hiếu sát và tham vọng quyền lực, tập đoàn lãnh đạo cộng sản Việt Nam vẫn kiên trì đi theo con đường mà Hồ Chí Minh đã chọn, đó là con đường đi lên xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa được xây bằng xác người bị trị, bằng máu xương của những người yêu nước, và chắc chắn là di họa sẽ khó lường về cả vật thể lẫn tinh thần, đó là lý do cho sự ra đời của BẢN ÁN CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN VIỆT NAM này.
Từ khi tham gia vào quốc tế cộng sản vào những năm 20 của thế kỷ trước, Hồ Chí Minh đã nhận chỉ thị của Đệ Tam Quốc Tế, đứa con đẻ của Lê Nin, ra đời vào năm 1919, mà một trong những chỉ thị gây di hại lớn hơn cả, đó là “Bạo Lực” và “Độc Tài Vô Sản” mà Hồ Chí Minh đã khéo léo đánh lừa dân Việt bằng cách thay từ “Chuyên chính vô sản” cho từ và “Độc Tài Vô Sản”, bởi từ “chuyên chính” thoáng nghe có vẻ tốt đẹp quá, chứ người Việt mấy ai hiểu được “Chuyên Chính” là một uyển ngữ của “Độc Tài”. Áp dụng bạo lực là một trong những chủ trương chính của Lênin. Và của Đệ tam Quốc Tế “Độc tài vô sản” được ông ta định nghĩa là “sử dụng bạo lực không chấp nhận một giới hạn nào cả, bất chấp tất cả các luật lệ”. Về tinh thần quốc gia và tinh thần quốc tế, Lênin gạt bỏ tinh thần quốc gia, cho đó là môt quan niệm của giới truởng giả (bourgeois), và người cộng sản chỉ biết có một loại tinh thần quốc tế, đó là “chung sức với các người cộng sản khác để chuẩn bị, tuyên truyền, và gia tốc thực hiện cách mạng vô sản quốc tế”. Ông ta kêu gọi những người cộng sản trên khắp thế giới “tiếp tay với Liên Xô tổ chức một đạo quân thống nhứt để thực hiện cuộc cách mạng vô sản thế giới và thiết lập một Cộng Hòa Sô Viết toàn cầu”. Lênin đòi hỏi người cộng sản phải tuyệt đối trọng kỷ luật. Vi phạm kỷ luật là bội phản giới vô sản. Ông ta nói : “không tuân kỷ luật là giải giới vô sản… người nào vi phạm một tý ty kỷ luật sắt của đảng vô sản là… tiếp tay cho giới trưởng giả chống vô sản”. Và Hồ Chí Minh, một học trò kiệt xuất của Lê Nin đã vận dụng một cách sáng tạo “Bạo Lực Cách Mang” và “Độc Tài Vô Sản” vào thực tiển của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam ngay khi đảng cộng sản Việt nam chưa chính thức thành lập, để với “Bạo Lực Cách Mạng” đó, Hồ Chí Minh đã thanh trừng những người yêu nước, những văn hào nhân sỹ trí thức vốn được xem là nguyên khí của quốc gia như cụ Sào Nam Phan Bội Châu, cụ Phạm Quỳnh, cụ Ngô Đình Khôi, Trương Tử Anh, Khái Hưng, và cả những đồng chí của Hồ như Tạ Thu Thâu, Ngô Gia Tự, Lâm Đức Thụ, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai… Cũng với “Bạo Lực” Hồ Chí Minh và Cộng sản Việt Nam đã thảm sát hơn 7.000 đồng bào Huế trong biến cố Tết Mậu Thân 1968 bằng hình thức chôn sống, hoặc đập đầu trước khi chôn, mà nạn nhân trong vụ thảm sát đó không ít người là các chức sắc tôn giáo, các sinh viên học sinh, các giáo sư đại học kể cả các cụ già và em nhỏ, mà chúng gán cho cái tội “Việt gian”.
Cũng với “Bạo Lực”, Hồ Chí Minh đảng cộng sản Việt Nam đã xua quân qua vùng phi quân sự tại vĩ tuyết 17 đánh chiếm tỉnh Quảng Trị, vào mùa hè 1972, trong chiến dịch lấn đất dành dân đó, cộng sản Việt Nam đã nã đại pháo trực diện vào đoàn người đang di tản ra khỏi vùng chiến cuộc, nghiền nát hơn 30.000 cụ già, phụ nữ và trẻ em trên đoạn đường dài hơn 3 km từ Triệu Phong đến Hải Lăng, Quảng Trị, tạo ra một Đại Lộ Kinh Hoàng, một Holocaust của Việt Nam.
Cũng với “Bạo Lực”, mùa Xuân 1975, Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam đã xua quân đánh chiếm toàn Miền Nam Việt Nam, xóa tên trên bản đồ thế giới một nước Việt Nam Cộng Hòa hợp hiến, hợp pháp, có chủ quyền lãnh thổ từ Vĩ tuyến 8 đến vĩ tuyến 17, gây ra cảnh điêu tàn, đổ nát cho tất cả cả tỉnh thành của Miền Nam Việt Nam và cũng tạo ra cảnh thương vong cho hang triệu người dân vô tội. Mà theo thống kê của Ủy Ban Truy Tố Tội Ác Chống Lại Loài Người Của Chế Độ Cộng Sản, thì số nạn nhân trực tiếp của Hồ Chí Minh và Cộng Sản Việt Nam là 3 triệu người, một con số thống kê, hết sức khiêm tốn, so với thực tế lên đến cả 10 triệu người.
Như đã nêu trên, một chỉ thị khác của Quốc Tế Cộng Sản được Hồ Chí Minh tiếp nhận và phát huy một cách sáng tạo trong thực tiễn của cách mạng Việt Nam nữa là “Độc Tài Vô Sản” mà Hồ Chí Minh và cộng sản Việt Nam đã lừa bịp cả dân tộc bằng uyển ngữ “Chuyên Chính Vô Sản”, tức là bần cùng hóa toàn dân, tức là quốc hữu hóa tất cả cơ sở vật chất, tài sản của nhân dân. Biến tài sản, nhà cửa, ruộng vườn, ao đầm, nhà máy, xí nghiệp của người dân thành tài sản của nhà nước, của chế độ. Phi giai cấp hóa toàn xã hội, tức là xóa bỏ hoàn toàn mọi tầng lớp quý tộc, thượng lưu, trung lưu, trí thức và kể cả các chức sắc tôn giáo trong xã hội bằng cách tịch thu tài sản của họ rồi hạ phóng, tức là đưa vào các trại cải tạo để tẩy não và hành hạ họ cho đến chết, rồi xây dựng một xã hội mới với những con người mới hoàn toàn vô sản, không có ý thức tư hữu bất cứ một loại tài sản nào, mà chỉ biết làm động để cấp nộp thành quả lao động lên cho “đảng và bác”. Ở Miền Bắc, Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt nam đã thực hiện rất thành công chỉ thì này thành một chính sách lớn của đảng và nhà nước thông qua cuộc cải cách ruộng đất, đấu tố phú nông địa chủ, tịch thu nhà cửa ruộng đất, hành quyết hơn 300.000 nông dân và tập trung giam giữ, cải tạo 700.000 người khác.
Cũng với chính sách “Độc Tài Vô Sản”, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng đã hết sực thành công trong việc tiêu diệt tầng lớp trí thức tư sản ở các đô thị Miền bắc thông qua vụ án Nhân Văn Giai Phẫm từ năm 1955 đến 1958 mà đao phủ trực tiếp của vụ án này đã nhận định rằng:
“Lật bộ áo “Nhân Văn – Giai Phẩm” thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián điệp, mật thám, lưu manh, trốt kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm…”… mà những người liên quan, gia sản bị tịch thu, bản thân bị tập trung cải tạo, bị hạ phóng.
Và sau ngày cưỡng chiếm miền Nam 30 tháng 4 năm 1975, “Bạo Lực” và Độc Tài Vô Sản” lại tiếp tục được những thuộc hạ của Hồ Chí Minh vận dụng hết sức thành công trước hết là bằng cách hành quyết những tiếng nói đối lập, tập trung giam giữ và cải tạo các sỹ quan, hạ sỹ quan của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mà Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam quy kết là Ngụy Quân, Ngụy Quyền cùng với các viên chức hành chánh của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và các chủ xưởng của các công ty xí nghiệp và lãnh đạo các tổ chức xã hội, các tôn giáo, các đảng phái mà không ít người đã vĩnh viễn gởi lại nắm xương tàn tại các nhà tù cải tạo đó, nhiều nhà máy, công ty, xí nghiệp, nhiều phương tiện sản xuất thuộc sở hữu tư nhân, chỉ sau một đêm bổng biến thành sở hữu của nhà nước, mà sau này được cổ phần hóa thành sở hữu của các cán bộ lãnh đạo cao cấp của đảng và nhà nước. Nhiều chủ cả, với tài sản tích cóp suốt cả đời người chỉ sau một đêm bỗng trở nên trắng tay, trở nên người vô gia cư, gai đình vợ con họ bỗng thành những nông dân bất đắc ở những vùng kinh tế mới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét