Pages

Thứ Tư, 16 tháng 11, 2011

Tại sao Cộng sản không tôn trọng con người?




Roma, Italia – TRONG Ý THỨC HỆ CỘNG SẢN KHÔNG CÓ CON NGƯỜI
Trong bài “CON NGƯỜI TRONG HIẾN PHÁP CỘNG HOÀ LIÊN BANG ĐỨC “, chúng tôi đã có dịp bàn đến tinh thần “Dân Chủ Thực Hữu ” (Democrazia sostanziale) của người Đức nói riêng và của người Tây Âu nói chung, trong phương thức tổ chức Quốc Gia của họ.
Điều đó có nghĩa là:
– không những họ nêu lên trong Hiến Pháp và Luật Pháp của Quốc Gia các điều khoản luật về quyền và tự do của con người,
– mà họ còn tiên liệu các thể thức và quy trách cho cơ chế Quốc Gia phải có trách nhiệm bảo vệ.
* không những bảo đảm cho các quyền căn bản của con người, chống lại mọi vi phạm, bất cứ từ đâu đến,
* mà cơ chế Quốc Gia còn phải tạo điều kiện và phương tiện thích hợp, nơi đâu chính người dân không thể tự mình giải quyết nổi, để giúp cho
– “ …mỗi cá nhân triển nở hoàn hảo con người của mình…” ( Điều 3, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc)
Người Đức đã đưa các lời tuyên bố về quyền và tự do con người vào chính thân bài của Hiến Pháp, để biến các lời tuyên bố đó thành những điều khoản luật thực định (lois positives) có hiệu lực bắt buộc đối với các cơ chế quyền lực Quốc Gia phải tuân hành:
- “Nhân phẩm con người bất khả xâm phạm. Bổn phận của mọi quyền lực Quốc Gia là kính trọng và bảo vệ nhân phẩm đó″ ( Điều 1, đoạn 1 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức).
Và sau đây là tinh thần “Dân Chủ Thực Hữu” tiên liệu để thực hành và bảo đảm:
– “Các quyền căn bản được kể sau đây có hiệu lực đối với các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp như là những quyền có giá trị bắt buộc trực tiếp” Điều 1, đoạn 3, id.).
Cũng vậy, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc nêu lên các quyền bất khả xâm phạm của con người, bằng cách đặt con người ở địa vị trung tâm điểm và tối thượng trong tổ chức Quốc Gia.
Con người và các quyền bất khả xâm phạm và bất khả nhượng của con người có trước Quốc Gia. Quốc Gia phải nhìn nhận và bảo vệ nhân phẩm cũng như các quyền liên hệ với nhân phẩm đó:
– “Nền Cộng Hoà nhận biết và bảo vệ các quyền bất khả xâm phạm của con người, con người như cá nhân hay như thành phần xã hội, nơi con người phát triển nhân cách của mình…” ( Điều 2, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Và sau đây là phương thức “Dân Chủ Thực Hữu” mà dân tộc Ý bảo đảm cho các quyền con người được thực hiện:
– “Các bổn phận của Nền Cộng Hoà (đối với các quyền đã được liệt kê) được kể đến trong các điều khoản này sẽ được các cơ quan và tổ chức được thiết lập để chu toàn hoặc bổ khuyết” (Điều 38, đoạn 4 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Nêu lên các tư tưởng trên trong bài viết vừa kể, chúng tôi có đề cập đến việc người dân có được “độc lập, tự do, hạnh phúc” hay
– “Không độc lập, Mất tự do, Thiếu hạnh phúc!” (lời của Cha Nguyễn văn Lý),
không chỉ hệ tại ở chỗ Quốc Gia tuyên bố nhiều hay ít các quyền và tự do của con người, mà còn ở chỗ Quốc Gia có tiên liệu các phương thức để thực hiện và bảo đảm cho người dân được hưởng các quyền căn bản của mình không bị vi phạm và tạo các điều kiện thích hợp, để người dân
– “triển nở hoàn hảo con người của mình” hay không.
Bởi lẽ tuyên bố trên văn bản (Hiến Pháp hay Luật Pháp) mới chỉ là hình thức “Dân Chủ Thuyết Lý” (Democrazia formale) thôi.
Và nếu Quốc Gia chỉ dừng lại ở hình thức “Dân Chủ Thuyết Lý”, có thể Quốc Gia chỉ là một tổ chức “Dân Chủ Mị dân” (Demagogica).
Đọc những dòng vừa kể, câu hỏi tự nhiên đến với bất cứ ai trong chúng ta là tại sao ở các nước XHCN, trong đó có cả XHCNVN, con người
– “Không độc lập, Mất tự do, Thiếu hạnh phúc!”? (Lời Cha Taddeo Nguyễn Văn Lý)
Phải chăng CSVN chỉ tuyên bố “Dân chủ Thuyết Lý “, nếu không muốn nói là “Dân Chủ Mị Dân“?
Câu trả lời chúng ta thường nghe thấy là câu trả lời khẳng định.
Nhưng trả lời như vậy, chúng ta chỉ trả lời đúng một phần, chúng ta chỉ xác nhận thực trạng người dân không được hưởng quyền và tự do của mình một cách “thực hữu“.
Nói cách khác, tổ chức Quốc Gia của nước CS không tiên liệu thực sự các phương thức để thực hiện và bảo đảm cho người dân được hưởng các quyền và tự do của mình mà Quốc Gia cam kết trên Hiến Pháp và Luật Pháp.
Tư tưởng vừa kể có thể bị người CS đối chất. Nhưng giả sử họ có im lặng, chúng ta chỉ mới xác nhận thực trạng không có “Dân Chủ Thực Hữu” ở các nước CS, nhưng vẫn chưa giải đáp được câu hỏi tại sao tổ chức Quốc Gia CS không thực thi “Dân Chủ Thực Hữu” cho người dân?
Đó là điều mà chúng tôi muốn cùng qúy bạn tìm hiểu và suy nghĩ ở những dòng dưới đây của bài đang viết.
1- Pháp Luật trong ý thức hệ CS không có con nguời
Ở các quốc gia dân chủ tự do Tây Âu, Luật Pháp (gồm các điều khoản của Hiến Pháp và các luật lệ thông thường) được hiểu là các thể thức, điều lệ dựa trên đó cuộc chung sống trong cộng đồng Quốc Gia được tổ chức. cfr. Giovanni Sartori, Elementi di teoria politica, Il Mulino, Bologna 1995, 28).
Nhiều cuộc tranh đấu, lật đổ, cách mạng (nhất là cuộc Cách Mạng 1789 của Pháp), cũng như những cuộc chiếm dần quyền hành của “làng xã thôn ấp” (Commons) đối với quyền lực Quân Chủ chuyên chế Anh Quốc qua thành ngữ
– “Nếu vua không cho thêm đại diện, thì dân không trả thêm thuế” (No taxation without representation)
Ai trong chúng ta cũng biết.
Tất cả những nỗ lực đó đều quy tụ bắt buộc ai hành xử quyền hành, đều phải sử dụng theo những điều khoản đã được pháp luật quy định sẵn hay thể chế “Quốc Gia Pháp Trị” (État de Droit).
Cũng trong chiều hướng đó, Hiến Pháp, văn bản nền tảng Luật Pháp khởi thủy trên đó một Quốc Gia trong tương lai sẽ được xây dựng, được người dân Tây Âu luôn luôn hiểu đồng nghĩa với:
– “Một Văn Bản Bảo Chứng” (Garantisme). Ở Tây Âu, người dân đòi buộc phải có Hiến Pháp, nếu muốn thiết lập Quốc Gia. Hiến Pháp đối với họ là một văn bản luật pháp nền tảng, hay một loạt các nguyên tắc cơ bản, thể hiện một thể chế tổ chức Quốc Gia, nhằm giới hạn mọi cách sử dụng quyền hành tự tung tự tác và bảo đảm một chính quyền có giới hạn” (Giovanni Sartori,op. cit., 25).
Danh từ Luật Pháp đối với các Quốc Gia XHCN không được hiểu trên âm hưởng của cùng một tần số như vừa kể.
Luật Pháp trong các Quốc Gia XHCN luôn luôn được nối liền với ý thức hệ chính trị.
Chính “ý thứ hệ chính trị” (doctrine politique) là nguồn cảm hứng cho ngôn từ, cho việc soạn thảo, hệ thống hoá, áp dụng và phán quyết của mọi hệ thống luật lệ.
Nói tóm lại, chính “ý thức hệ chính trị” ảnh hưởng từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp.
“Ý thức hệ chính trị” hướng dẫn cơ quan lập pháp phải soạn thảo những đạo luật nào, sắp xếp theo hệ thống nào, mục đích mà luật pháp được soạn thảo ra để đạt được và phải cắt nghĩa luật pháp như thế nào để đạt được mục đích.
Và chúng ta không lạ gì ý thức hệ chính trị đã hướng dẫn cuộc Cách Mạng Nga Sô và sinh ra Luật Pháp của Nga Sô, rồi của Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết cũng như của các Quốc Gia theo XHCN, trong đó có cả CSVN, là ý thức hệ của Marx và Engels.
Đối với ý thức hệ chính trị của Marx – Engels vừa kể, Luật Pháp không có nghĩa là những thể thức, điều lệ trên đó cuộc sống chung trong cộng đồng Quốc Gia được tổ chức. Nói khác, Luật Pháp và cưỡng chế tuân giữ là một:
Luật Pháp là ý muốn của giai cấp thống trị. Sự cưỡng chế là dụng cụ của giai cấp thống trị lợi dụng, chiếm được các phương tiện sản xuất trong tay áp đặt ý muốn của mình trên giai cấp bị bóc lột (cfr. Paolo Biscaretti Di Ruffìa, La Costituzione Sovietica del 1977, Giuffré, Milano 1990, 5-12)
Do đó, theo CS, Luật Pháp không có giá trị gì cả nếu được soạn thảo ra trong một xã hội không có giai cấp bị bóc lột và không có sự chống đối giữa các giai cấp, bởi vì lợi thú của cá nhân được hoà hợp nhịp nhàng với lợi thú của tất cả.
Mọi sự kích thích đối đầu giữa người với người tự chúng sẽ tan biến. Luật Pháp không hề hiện hữu trước khi xã hội bị phân chia thành giai cấp và cũng sẽ trở thành vô dụng, biến đi khi xã hội không còn giai cấp nữa ( cfr. Paolo Biscaretti, op. cit., 17-22).
Luật Pháp không có gì khác hơn là “thượng tầng cấu trúc ” biểu tượng cho “hạ tầng cấu trúc” nền tảng, là kinh tế đang ở bên dưới.
Nói cách khác, Luật Pháp không gì khác hơn là hệ thống kinh tế được viết ra dưới dạng thức các đạo luật. Quốc hữu hoá một loạt đất đai và cơ xưởng kỹ nghệ là một tiến trình khá đặc biệt. Là tiến trình trong đó giai cấp thống trị vừa thu tóm trong tay Luật Pháp lẫn kinh tế chỉ bằng một hành động độc nhất.
Trong trường hợp thông thường thì Luật Pháp được viết ra cũng như sửa chữa lại mỗi khi hệ thống kinh tế bên dưới cần biểu tượng hoặc bị thay đổi.
Luật Pháp thay đổi theo kinh tế. Hơn nữa Luật Pháp cũng được dùng để thay đổi hệ thống kinh tế.
Không những vậy, Marx và Engels còn đi xa hơn khi họ cho rằng không những chỉ có Luật Pháp, mà cả văn hoá, tình cảm, luân lý và tôn giáo cũng không có gì khác hơn là những biểu tượng “thượng tầng cấu trúc” của hệ thống nền tảng kinh tế ở bên dưới.
Viết đến đây, chắc hẳn quý bạn độc giả cũng như chúng tôi, chúng ta không khỏi đặt câu hỏi: nếu những điều vừa kể, Luật Pháp, văn hoá, tình cảm, luân lý và cả tôn giáo chỉ là “sản phẩm”, là cơ cấu “thượng tầng cấu trúc” của hệ thống kinh tế, nền tảng vật chất bên dưới, như tôn giáo được Marx cho là sản phẩm” thượng tầng cấu trúc “do giai cấp tư sản hay tư bản tạo ra nhằm ru ngủ giai cấp vô sản, bần cố nông bị bốc lột, thì tại sao sau cuộc Cách Mạng Vĩ Đại 1917” của giới vô sản Nga, một số quan niệm “giá trị” của xã hội tư bản vẫn được xã hội Sô Viết và các nước XHCN đem ra dùng?
Những quan niệm về “giá trị” như :
– mọi hành động sát nhân phải bị trừng phạt;
– mọi thủ đoạn cướp bóc, trộm cắp sẽ bị bắt giam;
– tính cách ngay thẳng, tình bạn bè, lòng trung tín, tấm lòng vị tha, đức đại độ là những đức tính luân lý được mến chuộng.
Những quan niệm “giá trị” đó đã có từ ngàn xưa, đã có trong xã hội tư sản và tư bản, vẫn hiện đang có giá trị trong các xã hội dân chủ , tự do, nhân bản Tây Âu hay tư bản chủ nghĩa.
Không biết những điều đó có một giá trị nào trong các quốc gia XHCN không?
Nếu người CS cho rằng họ vẫn tôn trọng thành tín, vị tha, đại lượng, từ bi, thân hữu thì làm sao họ giải thích được sự tồn tại của những giá trị trên, cho dầu nền tảng kinh tế vật chất đã được chuyển hoá từ chế độ lãnh chúa, quân chủ của Nga Hoàng sang kinh tế chỉ huy của Cách Mạng Vô Sản Bần Cố Nông.
Còn nếu người CS cho rằng họ không còn tôn trọng những “giá trị” trên, thì không biết xã hội CS của họ sẽ được mệnh danh là xã hội gì?
Hỏi để người CS và cũng để mọi người chúng ta trả lời.
Còn nữa, một số điều khoản luật tự chúng không liên lạc gì đến quyền lợi phe nhóm, ý thức hệ chính trị, mà do phong tục tập quán và ý thức cách sống phải lẽ của con người có lý trí (bon sens). Người CS không thể nào đem quan niệm thuần vật chất hay thuần ý thức hệ chính trị của họ ra giải quyết được.
– Ở những quốc gia áp dụng luật lái xe bên tay mặt, người ta có thể phạt vạ bằng tiền hoặc rút bằng lái hay câu lưu người lái xe bên tay trái hoặc vượt đèn đỏ chẳng hạn. Điều đó không nhất thiết phải liên hệ đến ý thức hệ tư bản hay XHCN, đến quyền lợi giới tư bản, chủ nhân ông hãng xưởng kỹ nghệ doanh thương hay giới giai cấp vô sản bần cố nông.
– Cũng vậy, phương thức chuyển giao quyền tư hữu từ một chủ thể nầy đến một chủ thể khác, được áp dụng từ khi con người hiện diện trên mặt đất hoặc bằng lối trao tận tay, hoặc bằng khế ước ký kết trên giấy tờ. Phương thức hành xử như vậy của con người, hay Pháp Luật, hay thể thức và điều lệ dựa trên đó cuộc chung sống trong cộng đồng Quốc Gia được tổ chức không hẳn hoàn toàn tuỳ thuộc vào thực trạng vật chất kinh tế “hạ tầng cấu trúc” như chủ trương của Marx – Engels.
– Còn nữa, ngữ vựng, văn phạm, thành ngữ, ý nghĩa của văn mạch trong một ngôn ngữ, ca dao, tục ngữ, thơ văn, tâm tình dân tộc của một nền văn hoá không hẳn tùy thuộc vào kiến trúc “hạ tầng cấu trúc” vật chất của hiện trạng kinh tế và hoàn toàn bị thay đổi vứt đi, khi thể thức và chính hướng kinh tế bị biến đổi. Đành rằng
* “Phi cơ trực thăng” được CSVN đổi thành “Máy bay lên thẳng“,
* “Thủy Quân Lục Chiến” thành “Lính Thủy Đánh Bộ“
* và “Viện Bảo Sanh” được biến thành “Xưởng Đẻ”
để cho cách nói được thanh bai hơn!
Giáo lý của Marx-Engels được chủ thuyết XHCN sao chép nguyên bản cho rằng văn hóa, luân lý, tôn giáo là “thượng tầng cấu trúc” được giai cấp thống trị tạo ra để “ru ngủ” giai cấp bị bốc lột, để họ dễ bề thao túng.
Đọc Điều Răn Thứ Năm “Chớ Giết Người” của Thiên Chúa Giáo, cũng như Giới “Cấm Sát Sinh” của Đức Phật, người CS không dễ gì biện minh cho rằng hai mệnh lệnh tôn giáo đó hoàn toàn do giới lãnh chúa, quân chủ độc tài bày ra, để tự quản chế quyền hành bất chấp luật lệ (legibus solutus) của họ.
Còn nữa, các từ ngữ như
– ”Demokratía” của Hy Lạp, là một danh từ kép, gồm “demos”(dân chúng) và ”krátos”(quyền hành). Như vậy ”Demokratía“: quyền hành của dân chúng, quyền hành thuộc về dân chúng hay “Dân Chủ“, nói theo ngôn từ của chúng ta.
– “Isonomía“: gồm isos (như nhau) và nómos (luật lệ). Luật lệ như nhau cho tất cả mọi người hay “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật“.
– “Isegoría“: gồm isos (như nhau), agorà (cộng đoàn). Mọi người đều như nhau trong cộng đoàn đang nhóm họp để bàn về đường lối và phương thức tổ chức đời sống Thị Xã (Polis). Nói các khác, mọi người đều có quyền ăn nói như nhau trong cộng đoàn đang nhóm họp hay “Tự do ngôn luận”.
Các từ ngữ “Demokratía, Isonomía, Isegoría” hay ”Dân Chủ, Bình Đẳng Trước Pháp Luật, Tự Do Ngôn Luận” là những quan niệm chúng ta đã có được từ trên dưới 2000 năm nay trong nền văn minh Hy Lạp, trong thời Platon, Aristote và thời các Quốc Gia Cộng Hòa của Athène, thế kỷ thứ 2 – 3 sau Thiên Chúa Giáng Sinh.
Nếu chúng ta còn muốn đi xa hơn nữa, Thánh Kinh của Thiên Chúa Giáo, từ ba bốn thế kỷ trước Thiên Chúa Giáng Sinh cũng đã ghi lại cho chúng ta dấu vết tương tự:
– “Thiên Chúa dựng nên con người giống hình ảnh Ngài,
Giống hình ảnh Thiên Chúa, Ngài dựng nên
Người nam, người nữ Ngài dựng nên” (Gen 1, 27)
Chúng tôi vừa nói là ba bốn thế kỷ trước Thiên Chúa Giáng Sinh, thời kỳ mà các nhà sử học và khảo cổ học tìm được những di tích lịch sử cổ kính nhất của các bản Thánh Kinh Cựu Ước được viết, nhưng tư tưởng của đoạn Thánh Kinh vừa trích dẫn không phải chỉ phát xuất từ ba bốn thế kỷ trước Thiên Chúa Giáng Sinh mà đã phát xuất từ lúc con người ý thức về nguyên thủy của mình, tức là từ lúc con người được Thiên Chúa sáng tạo nên.
– “Thiên Chúa sáng tạo con người giống hình ảnh Ngài…”.
Điều đó có nghĩa là Thiên Chúa ban cho con người trí khôn ngoan và lòng yêu chuộng tự do, phản ảnh lại trí khôn ngoan vô tận và tự do không biên giới của Ngài. Ngài là Đấng Tạo Hoá, không bị một thọ tạo nào, điều kiện nào giới hạn.
Đó cũng là điều cắt nghĩa tại sao ở bất cứ phương trời nào, bất cứ thời đại nào con người không thể chịu được áp bức, bó buộc, đàn áp, ngược đãi làm thương tổn đến nhân phẩm con người của mình.
Do đó mà nhân loại đã đồng loạt tuyên bố:
- “Tất cả mọi người đều được dựng nên bình đẳng như nhau,
Tất cả đều được ban cho một số quyền bất khả nhượng.
Trong các quyền nầy, quyền được bảo toàn mạng sống, quyền được tự do tìm kiếm hạnh phúc là những quyền thượng đẳng (Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ 1776)
– Và “Các Đại Diện (của Hội Đồng quốc Gia Pháp) đồng thanh tuyên bố rằng các quyền của con người do Thiên phú, bất khả nhượng và cao qúy” (Tuyên Ngôn Nhân Quyền và quyền Công Dân Cách Mạng Pháp Quốc 1789).
Người CS có thể đồng ý hay không, có thể tin hay không những điều chúng tôi vừa trích dẫn và bàn đến, nhưng sự chối bỏ không tin làm cho họ đứng trước vấn nạn không phải dễ giải đáp được.
Vì sao con người ở bất cứ không gian và thời gian nào cũng khao khát hạnh phúc và tự do?
Sự kiện không có gì xa lạ đối với người CS là chính cuộc Cách Mạng 1917 của giới bần cố nông và vô sản Nga chống lại Nga Hoàng là một biện chứng hùng hồn cho những bực tức vì thiếu tự do và mất hạnh phúc của dân chúng.
Nói cách khác, cho rằng Luật Pháp (và tất cả những gì chúng tôi vừa đề cập đến) chỉ là hiện thân “thượng tầng cấu trúc” của nền tảng vật chất kinh tế ở “hạ tầng” là quan niệm quá đơn sơ về con người và về xã hội con người.

NGUYỄN HỌC TẬP

2. Tại sao nhân quyền không được bảo đảm trong chế độ CS?
Chúng tôi đã bàn luận khá dài dòng sự khác biệt về quan niệm Luật Pháp giữa ý thức hệ dân chủ – tự do – nhân bản và ý thức hệ CS hay XHCN.
Chúng tôi cũng đã vượt quá lãnh vực chính trị, luật pháp khi mượn những trích dẫn tôn giáo để bàn luận thêm cho đề tài. Sự dài dòng trên của chúng tôi có thể được tha thứ, nếu chúng ta xét đến tầm quan trọng của câu xác định:
Nhân quyền có được bảo đảm hay không là do chính quan niệm về Luật Pháp và về nguồn gốc của nhân phẩm và các quyền căn bản bất khả xâm phạm của con người.
Như trên chúng tôi đã có dịp đề cập, nếu các Quốc Gia dân chủ và nhân bản Tây Âu quan niệm rằng:
– “Tất cả mọi người đều được dựng nên bình đẳng như nhau. Tất cả đều được ban cho một số quyền bất khả nhượng (Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ 1776).
– Hay “Các Đại Diện đồng thanh tuyên bố rằng các quyền của con người do Thiên phú, bất khả nhượng và cao quý…” ( Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Quyền Công Dân Cách Mạng Pháp Quốc 1789),
thì thái độ tự nhiên của Quốc Gia là:
– “… nhận biết (riconosce) và bảo vệ (garantisce) các quyền bất khả xâm phạm của con người, con người như cá nhân hay con người như thành phần cộng đồng tổ chức xã hội, nơi con người phát huy nhân cách của mình” (Điều 2, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Hoặc “Nhân phẩm con người bất khả xâm phạm. Bổn phận của mọi quyền lực Quốc Gia là kính trọng và bảo vệ nhân phẩm đó ” (Điều 1, đoạn 1 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức).
Bởi vì đó là nền tảng, trên đó
– ” …nền tảng mọi cộng đồng nhân loại, của cuộc chung sống hoà bình và công chính trên thế giới được xây dựng” (Điều 1, đoạn 2 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức).
Nói cách khác, nhân phẩm và các quyền và tự do căn bản bất khả xâm phạm liên hệ mật thiết với phẩm giá con người,
- không phải là sản phẩm của của một ý thức hệ, của một tổ chức xã hội,
- càng không thể là chỉ là quan niệm “thượng tầng cấu trúc” của một nền tảng vật chất kinh tế “hạ tầng“.
Con người với nhân phẩm của mình và các quyền căn bản bất khả xâm phạm liên hệ là một thực tại
– “do Thiên phú, bất khả nhượng và cao quý
– hay ” …được dựng nên bình đẳng như nhau…, được ban cho một số quyền bất khả xâm phạm“.
Con người với nhân phẩm và các quyền bất khả xâm phạm và bất khả nhượng như vừa kể là thực thể hiện hữu có trước tổ chức Quốc Gia.
Quốc Gia chỉ là một phương thức tổ chức xã hội, để con người có được cuộc sống cộng đồng với nhau, hỗ tương nhau, hoạt động của người nầy liên hệ làm lợi ích cho chính mình và cho người khác.
Quốc Gia không tạo ra con người mà là quy tụ nhiều người để tổ chức thành cuộc sống cộng đồng.
Quốc Gia không tạo dựng ra nhân phẩm và các quyền căn bản liên hệ bất khả xâm phạm của con người. Nhân phẩm và các quyền bất khả xâm phạm của con người có trước Quốc Gia, bởi đó Quốc Gia có bổn phận phải “nhận biết và bảo vệ “:
Con người với nhân phẩm của mình do “Thiên phú” , “được dựng nên bình đẳng như nhau” đó không tùy thuộc ở Quốc Gia, không cần Quốc Gia ban cho mới có.
Quốc Gia được tổ chức để phục vụ con người,
“Nền Cộng Hoà nhận biết và bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm của con người… ” (Điều 2 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
– Hay “Bổn phận của mọi quyền lực Quốc Gia là kính trọng và bảo vệ nhân phẩm đó” (Điều 1, đoạn 1 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức).
Và hậu quả đương nhiên của việc Quốc Gia nhận biết bổn phận của mình là “nhận biết và bảo vệ các quyền bất khả xâm phạm của con người” hay “kính trọng và bảo vệ nhân phẩm đó“ là Quốc Gia, để làm tròn nhiệm vụ của mình, phải đứng ra tạo các cơ chế và thể thức để
– biến các quyền bất khả xâm phạm đó thành hiện thực,
– bảo đảm chống mọi lấn áp, vi phạm bất cứ từ đâu đến
– và tạo điều kiện để con người có thể phát triển được chính mình.
– “Các bổn phận của Quốc Gia được kể đến trong các điều khoản nầy (các điều khoản về nhân quyền) sẽ được các cơ quan và tổ chức được thiết lập để chu toàn và bổ khuyết” (Điều 38, đoạn 4 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc), hoặc
– “Các quyền căn bản được kể sau đây có hiệu lực bắt buộc đối với lập pháp, hành pháp và tư pháp, như là những quyền có giá trị bắt buộc trực tiếp” (Điều 1, đoạn 3 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức).
Đó là quan niệm về Luật Pháp và con người với nhân phẩm và các quyền căn bản của mình trong tổ chức các Quốc Gia dân chủ, tự do và nhân bản Tây Âu.
Luật Pháp của các thể chế XHCN không có cùng một ý nghĩa như chúng ta vừa kể.
Đối với Ý Thức Hệ Cộng Sản, Luật Pháp là kết quả “thượng tầng cấu trúc” của cơ cấu kinh tế ở hạ tầng.
Luật Pháp không có gì cố định, tùy thuộc vào ý muốn và nhu cầu của giới hành quyền để chiếm lấy và giữ vững mục đích quyền lực chính trị cũng như kinh tế.
Con người, nhân phẩm, các quyền và tự do bất khả xâm phạm liên hệ đến nhân phẩm không phải do “Thiên phú” , “…được dựng nên bình đẳng như nhau…”.
Những gì con người có được là do giai cấp thống trị hay đảng CS quyết định, ban cho và chưa thu hồi.
Hiến Pháp không phải là văn kiện nền tảng bảo chứng cho người dân “nhằm giới hạn mọi cách sử dụng quyền hành tự tung tự tác và bảo đảm một chính quyền có giới hạn” (Giovanni Sartori, op. cit., id.), mà là
– “Dân chúng Sô Viết (đảng Cộng Sản Sô Viết), được hướng dẫn bằng các tư tưởng cộng sản chủ nghĩa khoa học và trung thành chính với các truyền thống cách mạng… định chắc nền tảng của chế độ xã hội và chính trị của Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết, thiết định (stabilire) các quyền, tự do và bổn phận bó buộc đối với người dân, các nguyên tắc tổ chức và mục đích cho Quốc Gia XHCN của toàn dân” (Tiền Đề Hiến Pháp 1977 CHLBSV, đoạn VI)...
Trong đoạn vừa trích dẫn, chúng ta nên chú ý hai điều:
Dân chúng Sô Viết “, thành phần có quyền lực trong tay, “được hướng dẩn bằng các tư tưởng cộng sản chủ nghĩa…, định chắc…, thiết định quyền, tự do, bổn phận… nguyên tắc… cho Quốc Gia XHCN của toàn dân…”không đồng nhất với “toàn dân“.
Văn mạch của đoạn Hiến Pháp không viết “Toàn thể dân chúng Sô Viết, được hướng dẫn…, định chắc…, thiết định…của toàn dân…”, mà là “Dân chúng Sô Viết…”, khác với tập thể của những người còn lại “… của toàn dân“.
Điều đó cho thấy rằng, mặc dầu các nước Cộng Sản vẫn tuyên bố kiểu “Dân Chủ Nhân Dân -Cộng Hoà- Xã Hội Chủ Nghĩa“, nhưng trên thực tế nhóm người có thực quyền để “…định chắc…, thiết định các quyền, tự do và bổn phận bó buộc… của toàn dân” chỉ là một nhóm người “dân chúng Sô Viết “. Và nhóm người “dân chúng sô viết” đó không ai xa lạ hơn là chính Đảng CS Sô Viết:
– “Đảng CS Sô Viết là sức mạnh hướng dẫn và định hướng xã hội Sô Viết, là nhân cội của hệ thống chính trị, của các tổ chức quốc gia và xã hội… Đảng Cộng Sản, được trang bị bằng ý thức hệ Marx-Lenin, xác định viễn ảnh tổng quát cho phát triển xã hội, đường hướng chính trị đối nội và đối ngoại của CHLBSV, lãnh đạo hoạt động sản xuất to lớn của nhân dân Sô Viết, tạo ra đặc tính chỉ huy và khoa học dựa trên nền tảng của cuộc đấu tranh để đem lại toàn thắng cho cộng sản chủ nghĩa (Tiền Đề Hiến Pháp 1977, CHLBSV, đoạn XIV) .
Đọc đoạn XIV của Tiền đề và đoạn VI Hiến Pháp 1977 CHLBSV, chúng ta thấy rằng “dân chúng Sô Viết” và “Đảng Cộng Sản” đều
– “được hướng dẫn bằng các tư tưởng cộng sản chủ nghĩa hay được trang bị bằng ý thức hệ Marx-Lenin”
và có cùng quyền lực như nhau: “định chắc…, thiết định quyền, tự do và bổn phận bắt buộc… các nguyên tắc và tổ chức cho Quốc Gia XHCN hay xác định viễn ảnh tổng quát, đường hướng chính tri đối nội và đối ngoại, lãnh đạo các hoạt động sản xuất, tạo ra đặc tính chỉ huy…”,
trong Quốc Gia Sô Viết.
Do đó chúng ta có thể kết luận rằng hai thực thể vừa kể, có cùng ý thức hệ và quyền hành như nhau trong tổ chức Quốc Gia Sô Viết không có gì khác hơn chỉ là một thực thể duy nhất hay Đảng Cộng Sản.
Nói cách khác, từ ngữ “Dân chúng Sô Viết” được dùng để nói lên tính cách “Dân Chủ Nhân Dân” của các Quốc Gia CS chỉ là một lối nói ngụy tạo, hay ít ra không cùng một ý nghĩa dân chủ trong từ ngữ của chúng ta.
Dân chúng Sô Viết ” hay Đảng Cộng Sản Sô viết vẫn là một.
Phần dân chúng còn lại trong tổ chức Quốc Gia được gọi là “toàn dân“, trong câu
– “Dân chúng Sô Viết… định chắc…, thiết định quyền, tự do và bổn phận bắt buộc của người dân,… các nguyên tắc và tổ chức Quốc Gia XHCN của toàn dân“.
Như vậy “Dân chúng Sô Viết” và “toàn dân” là hai thực thể khác nhau.
b – Đối với dân chúng hay “toàn dân” trong các Quốc Gia CS, “quyền và tự do cũng như bổn phận bắt buộc” phải do “Dân chúng Sô Viếthay Đảng Cộng Sản Sô Viết thiết định” cho mới có.
Các quyền, tự do và bổn phận bắt buộc đó không phải do “Thiên phú “.
Nhân phẩm, các quyền và tự do căn bản liên hệ để cho con người có được một cuộc sống “người cho ra người“, “xứng với nhân phẩm của mình” không phải là những gì liên hệ với con người, gắn liền mật thiết với bản tính con người, mà là những gì Đảng Cộng Sản có quyền “thiết định“, tức là xác định và ban cho mới có.
Nói cách khác, trong ý thức hệ Cộng Sản không có con người với bản tính, nhân phẩm, quyền và tự do từ lúc được sinh ra, mà chỉ có người công dân được ân huệ và có bổn phận bắt buộc do Đảng Cộng Sản ban cho bao nhiêu, lúc nào, trong trường hợp và điều kiện nào đều do Đảng.
Và nếu Đảng Cộng Sản ban cho, họ cũng có quyền cắt xén bớt hay thu hồi tùy hỷ.
Bởi lẽ Đảng không những nắm lấy trong tay uy quyền Quốc Gia, mà Đảng, theo chỉ thị của Breznev, còn là
– ” …về phương diện ý thức hệ Đảng là Bậc Thầy Không Thể Sai Lạc, về phương diện áp dụng thực hành Đảng Thể Hiện Sự Chính Xác Tuyệt Đỉnh, về phương diện trí thức Đảng là ThầnThánh” (Paolo Biscaretti Di Ruffìa, La Costituzione Sovietica, Giuffré, Milano 1990, 24).
Do đó Đảng trên hết, toàn quyền “thiết định” đời sống của người dân.
Vì Đảng “Không Thể Sai Lạc…, Chính Xác Tuyệt Đỉnh…, là Thần Thánh” nên Đảng không chấp nhận chống đối, bàn cãi, góp ý kiến của bất cứ cá nhân hay đoàn thể nào: không ai có thể hơn Đảng được, kể cả Thần Thánh, nên Đảng không chấp nhận đối lập, Đảng không có đối lập.
Ai đi ngược lại Đảng là thành phần phản động, Đảng phải tiêu diệt như đã tiêu diệt Nga Hoàng trong Cách Mạng tháng 10 và đang tìm cách tiêu diệt giai cấp tư bản.
Do đó ai yêu cầu Đảng chấp nhận đa nguyên, đa đảng chỉ là người trình độ ấu trĩ không tưởng, không biết gì về thực chất của Đảng.
Điều chúng tôi vừa kể không có gì đi ngoài quan niệm “Luật Pháp” trong ý thức hệ CS.
– “Luật Pháp” chỉ là cơ cấu “thượng tầng cấu trúc “được Đảng “thiết định” để đáp ứng lại nhu cầu nền tảng vật chất kinh tế bên dưới, là “dụng cụ” được Đảng tạo ra (Đảng là giai cấp đương quyền) để khống chế giai cấp bị trị “toàn dân“.
Hiến Pháp và Luật Pháp được Đảng sáng tạo ra để đáp ứng với nhu cầu kinh tế và quyền hành của Đảng đối với “toàn dân” bị trị, nên Đảng có thể sửa đổi, thêm bớt, loại bỏ hay sáng tạo văn bản mới tùy Đảng, để đáp ứng với đòi hỏi hiện thời. Hiến Pháp và Luật Pháp là dụng cụ để Đảng áp đặt trên giai cấp bị trị, chớ không phải là
… văn bản luật pháp nền tảng, hay một loạt các nguyên tắc cơ bản, thể hiện một thể chế tổ chức Quốc Gia, nhằm giới hạn mọi cách sử dụng quyền hành tự tung tự tác và bảo đảm một chính quyền có giới hạn” (Giovanni Sartori, op. cit., id.).
Hiểu được như vậy, chúng ta ý thức được tại sao người dân trong các chế độ Cộng Sản không được một bảo đảm nào về nhân phẩm, quyền và tự do căn bản của mình, mặc dầu Hiến Pháp và Luật Pháp của Cộng Sản vẫn kê khai đầy đủ, nếu không muốn nói là thừa thải, bao nhiêu quyền và tự do của người dân.
Nhưng họ kê khai như thế nào và tại sao, đó là điều mà chúng tôi muốn tìm hiểu thêm dưới đây.
Nếu con người trong thể chế dân chủ – tự do – nhân bản của các Quốc Gia tiến bộ Tây Âu là một thực thể, tự bản tính của mình, được dựng nên với nhân phẩm và các quyền cũng như tự do căn bản bất khả xâm phạm, liên hệ với nhân phẩm để con người có được cuộc sống xứng với phẩm giá của mình, thì bổn phận của tổ chức Quốc Gia là
– “nhận biết và bảo đảm các quyền và tự do bất khả xâm phạm” đó (Điều 2, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Mục đích của tổ chức Quốc Gia được thiết lập, không phải là cho chính Quốc Gia, cho Đảng, mà là tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để con người tự do phát triển hoàn hảo chính con người của mình:
– “Bổn phận của Quốc Gia là loại bỏ đi những chướng ngại vật về phương diện kinh tế và xã hội, là những chướng ngại vật trong khi giới hạn thực sự tự do và bình đẳng của người dân, ngăn cản họ phát huy làm triển nở hoàn hảo con người của mình và tham dự thiết thực vào các tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội của xứ sở” (Điều 3, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Đọc đoạn trích dẫn của Hiến Pháp 1947 Ý quốc vừa rồi (và cũng là tinh thần của bất cứ Hiến Pháp Tây Âu nào khác), chúng ta thấy mục đích của Quốc Gia là tiên liệu các điều kiện vật chất (kinh tế), định chế (xã hội), để con người có môi trường thuận lợi
- “…phát huy làm triển nở hoàn hảo con người của mình,
- “… tham dự thiết thực vào đời sống cộng đồng Quốc Gia (tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội của xứ sở”.
Nói tóm lại, Quốc Gia được thiết lập để hoạt động phục vụ con người, như là chủ nhân sở hữu chủ quyền tối thượng của Quốc Gia.
Con người phải được Quốc Gia đặt ở trung tâm điểm và tối thượng trong các hoạt động của mình để phục vụ, mục đích chính mà Quốc Gia được thành lập và tồn tại.
Trong tinh thần dân chủ, tự do, nhân bản của các Quốc gia Tây Âu, người ta bắt buộc Quốc Gia phải hy sinh (quyền hành bị giới hạn và luôn phải hành xử theo luật pháp xác định trước) để phục vụ con người, thay vì hy sinh con người để phục vụ Quốc Gia hay phục vụ ý thức hệ.
Các Quốc Gia theo ý thức hệ Cộng Sản cũng kê khai không thiếu các quyền và tự do của người dân, cũng như nhiều mỹ từ khác nữa. Nhưng mục đích của Quốc Gia CS không phải là con người mà là chính ý thức hệ Cộng Sản. Do đó lối liệt kê của họ không giống cách tuyên bố các quyền bất khả xâm phạm của con người trong thể chế dân chủ tự do.
Đảng Cộng Sản, được võ trang bằng ý thức hệ Marx-Lenin, xác định viễn ảnh chung cho việc phát triển xã hội… tạo nên tính cách chỉ huy và đặt trên nền tảng khoa học cho cuộc đấu tranh đến toàn thắng của chủ nghĩa cộng sản” (Tiền Đề Hiến Pháp 1977 CHLBSV).
Mục đích của Quốc Gia Cộng Sản: ” …toàn thắng của chủ nghĩa cộng sản“.
Như vậy người cộng sản không ngần ngại hy sinh quyền và tự do của người dân, nếu cần cả mạng sống người dân, để đạt cho bằng được “… toàn thắng của chủ nghĩa cộng sản“.
Đó là lý do tại sao không có gì bảo đảm cho quyền và tự do căn bản của con người trong chế độ cộng sản.
Và với cái nhìn đó, chúng ta thử xem phương thức tuyên bố quyền con người trong Hiến Pháp CHLBSV.
Chúng ta có thể so sánh quyền tự do truyền bá tư tưởng giữa Hiến Pháp 1949 CHLBĐ và Hiến Pháp 1977 CHLBSV chẳng hạn.
Mỗi người có quyền tự do phát biểu và phổ biến tư tuởng của mình bằng lời nói, sách báo và hình ảnh và có quyền được thông tin, không ai có quyền cấm cản, qua các nguồn truyền thông mà ai cũng có thể hội nhập được. Tự do báo chí và tự do thông tin bằng đài phát thanh và tự do điện ảnh được bảo đảm. Không ai có thể “thiết định” bất cứ một hình thức kiểm duyệt nào.
Các quyền được kể trên đây bị giới hạn bằng các điều luật tổng quát, hoặc các nghị định liên quan đến việc bảo vệ tuổi trẻ và việc bảo vệ con người trong danh dự của mình” (Điều 5, Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức).
Nói một cách tổng quát quyền tự do phát biểu và phổ biến tư tưởng không bị một giới hạn nào, không bị một quyền lực kiểm soát nào áp đặt, nếu không phải bởi những luật lệ nhằm “… bảo vệ tuổi trẻ và con người trong danh dự của mình“, tức là để bảo vệ
– ” Nhân phẩm con người bất khả xâm phạm (Điều 1, đoạn 1, id.).
Kính trọng và bảo vệ con người“(id.), nhất là đối với những con người yếu thế, và chỉ vì lý do đó, quyền và tự do của một cá nhân mới có thể bị giới hạn. Và giới hạn chưa hẳn là bị truất hữu, xâm phạm.
Và sau đây là quyền tự do phát biểu và truyền bá tư tưởng trong Hiến Pháp 1977 CHLBSV:
– “Phù hợp với lợi ích của nhân dân và với mục đích kiện toàn và bành trướng chế độ xã hội chủ nghĩa, người công dân Liên Bang Sô Viết được bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do quy tụ và biểu tình ngoài đường phố.
Quyền hành xử những quyền chính trị vừa kể được (chính quyền) bảo đảm bằng cách cung cấp cho người dân lao động và các tổ chức của họ cơ sở xã hội, đường xá, công trường, được (chính quyền) rộng rãi truyền bá tin tức và cung cấp cho họ sử dụng báo chí, truyền hình và đài phát thanh” (Điều 50 Hiến Pháp 1977 CHLBSV, đoạn 1 và 2) .
Mới đọc thoáng qua điều 50 vừa kể, nhất là đoạn 2, người đọc có cảm tưởng là người dân CHLBSV được ưu đãi hơn người dân của CHLBĐ, mặc đầu Đức là một trong những Quốc Gia giàu có nhất thế giới. Chính quyền Đức không hề hứa hẹn là sẽ cung cấp cho người dân của họ “cơ sở xã hội (nhà cửa để làm nơi hội họp), đường xá, công trường, đài truyền hình, đài phát thanh” kể cả giấy mực “báo chí“.
Nhưng chúng ta đừng quên chú ý đến những dòng đầu của đoạn 1: “phù hợp với mục đích của nhân dân (dĩ nhiên là” nhân dân sô viết” truớc khi kể đến “toàn dân“, như chúng tôi đã có dịp bàn đến ở trên) và với mục đích kiện toàn và bành trướng chế độ xã hội chủ nghĩa“.
Nói một cách nôm na, nếu người dân muốn được hưởng các quyền “tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp…”, các tự do đó phải “phù hợp với lợi ích của nhân dân”, của Đảng CS trước tiên, rồi đến lợi ích của toàn dân theo thể chế về tổ chức Quốc Gia và quyền hạn con người như Đảng muốn, bởi lẽ Đảng là
– ” …nhân cội của hệ thống chính trị, của tổ chức chính quyền và xã hội… xác định các nguyên tắc tổ chức Quốc Gia… thiết định quyền, tự do và bổn phận ràng buộc đối với dân chúng” và Đảng theo chỉ thị của Breznev “là Bậc Thầy không thể sai lạc…, là sự Chính Xác Tuyệt Đỉnh…, trí thức sáng suốt như Thần Thánh“.
Đi ra ngoài đường lối đó, tức là “không phù hợp với lợi ích của nhân dân“, cá nhân không phải là người dân được Đảng “thiết định” cho quyền, tự do và bổn phận bắt buộc, tức là cá nhân hay tập thể cá nhân đó không phải là người dân thuộc Quốc Gia, mà Đảng là “nhân cội của hệ thống chính trị, của tổ chức chính quyền và xã hội“, tức là không còn có một quyền, tự do và bổn phận nào cả.
Nói cách khác, cá nhân trong Quốc Gia CS được tự do ngôn luận, truyền bá tư tưởng, tự do hội họp, biểu tình…nếu dùng những “quyền và tự do” đó để “phục vụ Đảng”, cũng như “để kiện toàn và bành trướng xã hội chủ nghĩa“.
Nếu không làm nô lệ cho Đảng và xã hội chủ nghĩa, cá nhân đó thuộc thành phần phản động. Và vì là phản động, không “phù hợp với lợi ích của nhân dân và với mục đích kiện toàn và bành trướng xã hội chủ nghĩa”, cá nhân không được hưởng bất cứ một đặc ân nào mà Quốc Gia của Đảng tuyên hứa ở đoạn 2.
Đó là điều đã xảy ra cho những ai chống đối chế độ CS ở Liên Bang Sô Viết trước đây và hiện nay ở Việt Nam. ” …cơ sở xã hội, đường xá, công trường…, đài truyền hình và truyền thanh…giấy bút, báo chí” mà Quốc Gia hứa chỉ còn là ảo tưởng.
Có chăng “…giấy bút, báo chí…” mà họ có được là do họ xuất tiền túi ra để “mua lậu và in chui“.
Chúng ta đừng có ảo tưởng cho rằng chính quyền trong các nước CS thực thi “dân chủ thực hữu” hơn cả chính quyền của một Quốc Gia giàu có như Đức quốc. Bởi lẽ chính quyền Liên Bang Sô Viết cung cấp cả phương tiện vật chất (cơ sở xã hội, đường xá, công trường, truyền hình, truyền thanh và giấy bút, báo chí) để người dân hưởng thụ thực sự quyền tự do ngôn luận, truyền bá tư tưởng và hội họp của mình.
Suy nghĩ chín chắn hơn, chúng ta thấy điều đó không có gì lạ, bởi lẽ trong một Quốc Gia CS như CHLBSV, chính quyền đã thu tóm, quốc hữu hoá mọi phương tiện sản xuất. Nếu chính quyền không đứng ra cung cấp những phương tiện vật chất đó, thì việc Quốc Gia có liệt kê bao nhiêu quyền cũng như không. Đó là chưa kể đồng thời với việc cung cấp các phương tiện vật chất, chính quyền nắm trong tay quyền đặt điều kiện “phù hợp với lợi ích của nhân dân và với mục đích kiện toàn và bành trướng xã hội chủ nghĩa...”.
Với những điều kiện như vậy, người dân “được hoàn toàn tự do làm nô lệ” cho Đảng và mục đích của Đảng, “kiện toàn và bành trướng xã hội chủ nghĩa”.
Đọc những chỉ trích vừa qua đối với cách thức “thiết định” quyền và tự do của người dân, người cộng sản cũng như những người thân cộng sản có thể chỉ trích ngược lại chúng tôi.
Họ có thể cho rằng đặt điều kiện giới hạn đối với quyền và tự do trong cuộc sống cộng đồng Quốc Gia, thể chế nào cũng áp dụng. Bởi lẽ quyền và tự do, trong cuộc chung sống của nhiều người, không thể hiểu là muốn làm gì, làm thế nào cũng được, mà phải hưởng thụ quyền và tự do của mình trong giới mức và theo thể thức được luật pháp ấn định, mà ngôn từ luật học gọi là “dành quyền hạn chế cho luật pháp” (riserva di legge), nếu không xã hội sẽ thành loạn và cuộc sống Quốc Gia sẽ bị tan vỡ.
Đọc bất cứ văn bản Hiến Pháp nào, của các nước CS hay của các Quốc Gia dân chủ Tây Âu, chúng ta đều thấy nhan nhãn đó đây các thành ngữ như “như luật pháp quyết định, theo luật lệ hiện hành…”.
Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với lý chứng biện hộ của những người cộng sản. Trong bài “CON NGƯỜI TRONG HIẾN PHÁP CỘNG HOÀ LIÊN BANG ĐỨC” vừa qua, ngoài ra các trường hợp
– “dành quyền hạn chế cho luật pháp” thông thường như vừa kể, người Đức còn dùng đến thể thức
– “dành quyền hạn chế tăng cường đối với luật pháp” (riserva rinforzata di legge), khi họ đưa ra các điều luật để bảo đảm quyền và tự do bất khả xâm phạm của con người, cũng như
– “dành quyền tuyệt đối cho cơ quan tư pháp” (riserva assoluta al potere giudiziario).
Nói cách khác các vị soạn thảo Hiến Pháp 1949 CHLBĐ chưa ngủ yên với thể thức giao phó cho luật pháp quyết định việc bảo vệ quyền và tự do của con người theo các công thức thường lệ “như luật pháp quyết định, theo luật lệ hiện hành…”, mà chính các vị đúng ra giới hạn, bắt buộc luật pháp phải “quyết định,…hiện hành” như thế nào, tức là luật pháp phải
– “… có giá trị phổ quát, chớ không chỉ nhằm trường hợp riêng lẻ”
– “… phải đề cập rõ ràng đến quyền căn bản và trích dẫn điều khoản của Hiến Pháp liên hệ”
– “Không có trường hợp nào trong đó một quyền căn bản bị vi phạm đến nội dung thiết yếu của mình”
– “Ai bị cơ quan công quyền vi phạm đến các quyền của mình, có thể đệ đơn thưa cơ quan đó với cơ quan tư pháp. Bởi lẽ không cần phải có một cơ quan thẩm quyền nào khác, đó là thẩm quyền của cơ quan tư pháp thường nhiệm ...
Các vị cũng cảnh cáo các chính đảng, lợi dụng địa vị và uy thế của mình chống lại thể chế dân chủ, tự do của Quốc Gia, sẽ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật:
– “Các chính đảng hoặc do chủ đích, hoặc do hành vi của các đảng viên thuộc hệ nhằm tấn công và tiêu diệt thể chế dân chủ tự do, hoặc đe dọa sự tồn vong của Cộng Hoà Liên Bang Đức, là những chính đảng bất hợp hiến (Điều 21, đoạn 2, Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức).
Còn nữa, các vị cũng tiên liệu các điều kiện gia trọng khó khăn, biến Hiến Pháp thành “cứng rắn” (rigide), khiến cho những ai muốn tu chính, sửa đổi thay thế các điều khoản của Hiến Pháp gặp phải những trở ngại không phải dễ vượt qua:
Một đạo luật như vừa kể (để tu chính Hiến Pháp) phải được sự đồng thuận của 2/3 thành viên Hạ Viện và 2/3 thành viên Thượng Viện ( Điều 79, đoạn 2, id.).
Và sau cùng các vị cũng quyết định có những điều khoản “bất di dịch“, không thể sửa đổi dù đối với bất cứ hoàn cảnh và điều kiện nào:
Không thể chấp nhận bất cứ một sự thay đổi nào đối với Hiến Pháp nầy, có liên quan đến sự tương quan giữa Cộng Hoà Liên Bang (Bund) và các Tiểu Bang (Laender), nhất là liên quan đến việc tham gia của các Tiểu bang vào quyền lập pháp hoặc liên hệ đến các nguyên tắc đã được tuyên bố nơi các điều 1 và 20″ ( Điều 79, đoạn 3, id.).
Những điều khoản vừa trích dẫn cho thấy rằng không phải các Hiến Pháp của thể chế dân chủ tự do là những Hiến Pháp mềm nhũng, không xương sống. Thể chế dân chủ cũng biết đặt điều kiện và lằn mức không thể vượt qua cho cuộc sống cộng đồng cũng như chống lại những ai muốn “tấn công và tiêu diệt” mình.
Dân chủ, bình đẳng, bao dung , khoan hồng không thể đồng nghĩa với nhu nhược.
Những điều khoản trên cho thấy hai mục đích mà các vị soạn thảo Hiến Pháp 1949 CHLBĐ (và của bất cứ Hiến Pháp nào của các Quốc Gia dân chủ Tây Âu) nhằm bảo vệ:
– “thể chế dân chủ tự do, sự tồn vong của Cộng Hoà Liên Bang Đức (điều 20)
– và nhân phẩm con người bất khả xâm phạm (điều 1).
Đó là mục đích mà các vị đã nhất quyết bảo vệ bằng bất cứ giá nào, khi viết ra điều 79 vừa kể.
Và nếu chúng ta muốn đi xa hơn nữa, ” …thể chế dân chủ tự do…cũng như sự tồn vong của Cộng Hoà Liên Bang Đức” được các vị tuyên bố bảo vệ, không có mục đích gì khác hơn là để tôn trọng nhân phẩm con người một cách hữu hiệu hơn mà Hiến Pháp tuyên bố kính trọng và bảo đảm ngay ở điều 1 của Hiến Pháp
Nhân phẩm con người bất khả xâm phạm. Bổn phận của mọi quyền lực Quốc Gia là kính trọng và bảo vệ nhân phẩm đó (Điều 1, đoạn 1 Hiên Pháp 1949 CHLBD)
Nói tóm lại, việc dùng “điều kiện dành cho luật pháp“, dùng hình thức “điều kiện củng cố thêm dành cho luật pháp“, cảnh cáo các chính đảng, tiên liệu các trường hợp gia trọng để bảo vệ Hiến Pháp hay khẳng định những điều khoản bất di dịch nào đó là để quyền và tự do con người được bảo đảm.
Các phương thức đó cần nhưng chưa đủ. Điều quan trọng quyết định là thể chế Quốc Gia nhằm phục vụ con người hay phục vụ Đảng, Quốc Gia và ý thức hệ.
NGUYỄN HỌC TẬP
Nguồn: VRNs

Không có nhận xét nào: