Pages

Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2012

NẾU VIỆT CỘNG CHẤP NHẬN ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG ĐIỀU GÌ SẼ XẨY RA?


Như mọi người đều biết, nỗ lực đấu tranh bao lâu nay của các lực lượng quốc gia dân chủ đóng vai trò lãnh đạo chống cộng (Các chính đảng, các lực lượng và tổ chức đấu tranh…) và quần chúng tham gia chống cộng trong cũng như ngoài nước, đều nhằm đòi buộc đảng và nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đương thời phải từ bỏ chế độ độc tài toàn trị “nhất nguyên xã hội chủ nghĩa”, để thiết lập một chế độ tư do dân chủ, đa nguyên, đa đảng.
       Lý do mà các lực lượng  quốc gia dân tộc dân chủ và quần chúng chống cộng đưa ra là vì trên bình diện lý luận chế độ xã hội chủ nghĩa là không tưởng (một xã hôi lý tưởng những không thể thực hiện được). Trên bình diện thực tế không những đã không thực hiện được mà còn gây ra hậu quả nghiệm trọng, toàn diện, di hại lâu dài cho nhiều dân tộc, nhiều đất nước. Thực tế là Liên Xô, nước khởi xướng thực hiện chế độ xã hội chủ nghĩa, sau 74 năm (1917-1991) nay đã phải từ bỏ con đường “Nhất nguyên Xã hội chủ nghĩa” để đi theo con đường“Tư do dân chủ đa nguyên”. Đồng thời, các nước Xã hội Chủ nghĩa Đông Âu cũng đã theo gương Liên Xô tự hủy để đưa đất nước tiến lên theo chiều hướng mới.

       Riêng tại Việt Nam, chế độ Xã hội Chủ Nghĩa cũng đã được Đảng Cộng Sản Việt Nam thử nghiệm triệt để sau 42 năm (1954-1995) bị thất bại, dù đã cố gắng đổi mới (1986) vẫn không thành công.Với thời gian và thực tế ấy cũng đã đủ cho thấy con đường “Xã hội chủ nghĩa”(XHCN) là con đường trái chiều với lợi ích dân tộc, nguyện vọng của nhân dân. Chế độ XHCN là không phù hợp với thực tại đất nước, không đem lại “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” cho toàn dân. Hậu quả thực tế là: Nhân dân Việt Nam đã phải hy sinh quá nhiều, mọi mặt, để ngày nay phải nhận chịu thân phận sống trong một đất nước suy đồi toàn diện, bất công, đói nghèo tự do và cơm áo.
        Thực tế là, năm 1995 Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận, thiết lập quan hệ ngoại giao, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt cộng thực hiện chính sách “mở cửa” với các nước tư bản, đi vào con đường làm ăn “kinh tế thị trường (là thựctheo định hướng xã hội chủ nghĩa (là giả)”. Thực tế là, sau 16 năm làm ăn theo “Kinh tế thị trường tư do” Việt Nam đã và đang theo“định hướng tư bản chủ nghĩa” và theo đúng quy luật phát triển phù hợp thì nền “Kinh tế thị trường” tất yếu dẫn đến nền “chính trị dân chủ đa nguyên”. Đây là hệ quả ai cũng thấy được, những người cộng sản Việt Nam cũng thấy như thế, song vì sao họ vẫn ngoan cố bám lấy cái vỏ “Xã hội Chủ nghĩa”? (Chúng tôi đã có câu trả lời trong bài viết trước đây nhan đề “ 36 năm Việt cộng xây dựng chủ nghĩa xã hội vì sự nghiệp của cộng sản quốc tế: Thành quả và triển vọng” . Xin vào: thieny-lienhuong.blogspot.com để đọc thêm).
        Hiện tại bề ngoài Việt cộng vẫn chống “Dân chủ đa nguyên” quyết liệt và ngoan cố bám lấy cái vỏ “Nhất nguyên Xã hội chủ nghĩa”; chốngđến bao giờ và bám được bao lâu nữa thì thực tế, với thời gian không bao lâu nữa sẽ có câu trả lời.
         Bây giờ chúng tôi xin đưa ra một giả định thực tế: “Nếu ngay bây giờ, Cộng sản Việt Nam chấp nhận dân chủ đa nguyên, điều gì sẽ xẩy ra?” Chấp nhận đa nguyên là Việt cộng phải chấp nhận tự do, dân chủ, phải từ bỏ độc tài, độc tôn và độc quyền thống trị đất nước. Nghĩa là họ phải tuân thủ các nguyên tắc sinh hoạt dân chủ và phương thức dân chủ để nắm quyền và cai trị đất nước theo một bản Hiến Pháp dân chủ đa nguyên.
Bài viết này lần lượt trình bầy:
-       Giả định thực tế:  Nếu Việt cộng chấp nhận đa nguyên, đa đảng, điều gì sẽ xẩy ra?
-       Những điều kiện cần và đủ để giả định thành hiện thực.
-       Chuyển biến các khuynh hướng chính trị trong đa nguyên đa đảng
I/- GIẢ ĐỊNH THỰC TẾ: NẾU VIỆT CỘNG CHẤP NHẬN ĐA NGUYÊN, ĐA ĐẢNG ĐIỀU GÌ SẼ XẨY RA?   
- Nếu Việt cộng tự nguyện, tự giác, đơn phương, chủ động , hợp tác thực hiện kết thúc tiến trình chuyển thể hòa bình và êm dịu như Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã làm vào cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90, hay theo chiều hướng chế độ độc tài quân phiệt Miến Điện đã đang muốn làm, và đã khởi sự làm trong thời gian gần đây (từ cuối năm 2011), đã có dấu hiệu và hiệu quả thực tiễn bước đầu, như mọi người theo dõi tình hình đã thấy.
         Nếu làm theo cách này, là cách tối ưu có lợi nhất cho nhân dân, Đất nước và cho chính Việt cộng. Có lợi cho Việt cộng, vì chế độ độc tài toàn trị dù bị tiêu vong, nhưng Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay (nếu không đổi tên) vẫn có cơ hội tồn tại cùng với các chính đảng khác sinh hoạt bình đẳng, hợp pháp để giành quyền lãnh đạo đất nước trong một chế độ dân chủ đa đảng. Và Cộng đảng Việt Nam vẫn có nhiều thuận lợi hơn các chính đảng khác (nhờthế lực sẵn có sau nhiều năm nắm quyềnđộc tôn…) để nắm quyền trở lại trong khung cảnh chế độ dân chủ đa đảng này, nếu được đa số nhân dân tín nhiệm trong các cuộc tranh cử và bầu cử tự do. Đồng thời, sẽ tránh được những hậu quả tai hại, bi thảm cho nhân dân (đổ máu…), đất nước (tan hoang…)và cho chính Việt cộng như nhân dân, đất nước và các nhà độc tài các nước vùng Trung Đông và Bắc phi đã và đang phải gánh chịu.
         Một giả định, nếu chọn và làm theo cách này, Việt cộng có thể chủ động thực hiện cách thức kết thúc tiến trình chuyển đổi hòa bình êm dịu như sau:
* Chuyển đổi trên bình diện pháp lý:
1.-Quốc hội đương nhiệm đang có nghị trình sửa đổi Hiến pháp hiện hành, thay vì sửa chữa theo hướng củng cố chế độ độc tài độc đảng hiện nay, sẽ sửa đổi theo hướng dân chủ đa đảng.
        Theo hướng này, chỉ cần sửa đổi những điều khoản căn bản liên quan đến danh hiệu chế độ chính trị và vai trò các chính đảng trong chế độ chính trị dân chủ, đa đảng.Còn lại các điều khoản khác vẫn duy trì, chỉ sửa đổi hay bãi bỏ các điều khoản không còn phù hợp hay trái với chế độ chính trị dân chủ đa đảng. Mục đích duy trì nguyên trạng những qui định về cơ cấu tổ chức, nhân sự điều hành chính quyền dân sự cũng như quân sự các cấp, các ngành (lập pháp,hành pháp và tư pháp) hiện hành từ trung ương đến địa phương trên cả nước,là để tránh mọi sự xáo trộn bất lợi. Sau đó sẽ sửa đổi, điều chỉnh dần dần những bất hoàn theo thời gian thích hợp để hoàn chỉnh từng bước chế độ chính trị dân chủ, đa đảng trên bình diện pháp lý.
Tỷ dụ, Hiến pháp hiện hành (1992) qui định nơi:
      CHƯƠNG I: Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
                                                Chế độ chính tri.
Có thể sửa đổi thành Nước Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam (1)
                         Hoặc: Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa  (2)
(Nếu muốn lấy lại danh xưng HP. 1946)
Hay: Nước Cộng hòa dân bản chủ nghĩa Việt Nam(3)
Nếu muốn nghe cho quen tai và có ý nghĩa lấy dân làm gốc)
Chế độ chính trị     
Điều 1: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.
Sửa đổi thành : Nhà nước Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam (hoặcchọn 2 hay 3) là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về toàn dân.
        Điều 4: Đảng Cộng dản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
    Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
 Có thể  sửa đổi Điều 4 thành:
Điều 4: Mọi công dân Việt Nam, với tư cách cá nhân hay chính đảng, có quyền tham gia công việc lãnh đạo, quản lý đất nước và xã hội, thông qua các cuộc bầu cử tự do.
Mọi cá nhân công dân và tổ chức chính đảng phải hoạtđộng  trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
2.- Quốc hội cơ quan lập pháp đương nhiệm sau đó cần:
- Làm luật tu chỉnh hoặc luật mới thay thế những luật lệ trái với Hiến pháp dân chủ đa nguyên, đa đảng mới được hình thành từ Hiến pháp hiện hành được sửa đổi. (Luật Đất Đai, Nhà đất, Luật Hình, Luật Hộ…)
- Làm “Luật chính đảng” để cho phép các chính đảng được thành lập và tham gia sinh hoạt chính trị hợp pháp trong chế độ dân chủ đa đảng đã được khai sinh từ Hiến pháp hiện hành được sửa đổi.
      – Làm “Luật ứng cử và bầu cử” vào các chức vụ dân cử để thực thị Hiến pháp dân chủ,đa đảng, cho mọi cá nhân công dân và các tổ chức chính đảng có thể tham gia hợp pháp trong các cuộc tranh cử và bầu cử tự do vào các chức vụ dân cử các cấp, các ngành trên cả nước.
      – Làm “Luật Hòa Giải Dân Tộc”(như nước Cộng Hòa Nam Phi đã làm sau khi kết thúc thắng lợi vào đầu thập niên 90, cuộc chiến tranh lâu dài chống chế độ phân biệt chủng tộc giữa thiểu số người da trắng thống trị trên tuyệt đại đa số người da đen bị trị; tương tự như chế độ độc tài đảng trị bao lâu nay tại Việt Nam, thiểu số các đảng viên Cộng đảng Việt Nam đã thống trị trên tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam trên nửa thế kỷ qua).
          Luật này sẽ áp dụng nguyên tắc bất hồi tố của luật pháp nhằm miễn tố chung cho những hành động vi phạm luật pháp quốc nội hay quốc tế của cá nhân hay tập thể xẩy ra trước ngày ban hành “Luật Hòa Giải Dân Tộc” ở cả hai phía Việt cộng cũng như Việt quốc.
Luật này nhằm hóa giải hận thù quá khứ, ngăn ngừa mọi hành vi phục thù chính trị trong tương lai do những nguyên nhân từ quá khứ, dưới bất cứ hình thức nào, tạo sự hòa giải những mâu thuẫn trong lòng dân tộc, duy trì ổn định chính trị, xã hội để có điều kiện thuận lợi kiện toàn chế độ chính trị dân chủ đa đảng mới hình thành; tạo tiền đề đoàn kết thống nhất được toàn lực quốc gia để xây dựng, củng cố, phát triển toàn diện đất nước đến phú cường, văn minh tiến bộ theo kịp đà tiến hóa chung của nhân loại, tạo thế và lực chống ngoại xâm hữu hiệu, bảo vệ Tổ Quốc.
Công, tội của các cá nhân hay tập thể ở cả hai phía Quốc-Cộng nếu có trong quá khứ, thiết tưởng cần để cho lịch sử mai nầy xét định. Hiện tại chỉ nên coi đó là những bài học kinh nghiệm cần rút ra cho hiện tại và tương lai.
        3.- Chính phủ, cơ quan hành pháp đương nhiệm chiếu nhiệm vụ qui định của Hiến pháp sửa đổi, bằng các văn bản lập qui dưới luật, để điều chỉnh theo các luật lệ  đã được Quốc Hội sửa đổi một cách phù hợp với thời gian, không gian và tiến trình hoạt động bình thường của guồng máy công quyền quốc gia, để tránh mọi sự xáo trộn, bất ổn chính trị và xã hội, bất lợi cho đại cuộc.
        Tỉ như “luật ứng cử và bầu cử” Quốc hội hay Hội Đồng Nhân Dân các cấp sẽ được áp dụng trong nhiệm kỳ sắp tới (Trừkhi Cộng đảng, Quốc hội và chính quyền đương nhiệm đồng thuận về một quyết định khác hơn, chẳng hạn giải tán các cơ quan dân cử cho ứng cử và bầu cử sớm hơn, do tình hình đòi hỏi mà không gây xáo trộn chính trị và xã hội). Nhưng các luật hủy bỏ hoặc thay thế những luật lệ trái với Hiến pháp dân chủ đa nguyên, hay “Luật chính đảng”“Luật hòa giải dân tộc”  thì cần có hiệu lực tức thời sau khi ban hành tạo tiền đề chứng tỏ thực tâm và thiện chí của Cộng đảng và nhà cầm quyền đương thời muốn thực hiện sự chuyển đổi hòa bình và êm dịu từ “Chế độ độc tài, độc đảng” qua“Chế độ dân chủ, đa đảng”. Đồng thời giúp cho các cá nhân công dân cũng như chính đảng có thời gian củng cố, phát triển tổ chức và sinh hoạt, chuẩn bị kịp thời tham gia ứng cử  với tư cách cá nhân hay do Chính đảng đưa người ứng cử vào các cơ quan dân cử của cả nước (Quốc Hội, Chủ tịch nước hay Tổng Thống, nếu Hiến pháp tu chính người đứng đầu hành pháp do dân trực tiếp bầu cử trong các cuộc phổ thông bầu phiếu, thay vì do Quốc Hội bầu cử như Hiến pháp hiện hành…) và địa phương (như Hội đồng nhân dân các cấp…).
      *Chuyển đổi trên bình diện thực tế:
         Mọi cơ cấu tổ chức và nhân sự điều hành chính quyền các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương trên cả nước vẫn  duy trì nguyên trạng và hoạt động bình thường. Sự sửa đối Hiến pháp, sửa đổi luật lệ do Quốc hội đương nhiệm hay các văn bản lập qui dưới luật do Chính phủ đương nhiệm ban hành để điều chỉnh theo sự sửa đổi Hiến pháp và luật lệ của Quốc hội, cần được các cấp, các ngành thực thi nghiêm túc, đồng bộ trên cả nước.
Quốc Hội và Chính phủ đương nhiệm cần thống nhất và chủ động chỉ đạo thực hiện những sửa đổi Hiến pháp, luật pháp và lập quy theo hướng chuyển đổi hòa bình, êm dịu từ “chế độ độc tài, độc đảng ” hiện nay qua “Chế độ dân chủ, đa đảng”. Đồng thời, Quốc hội và Chính phủ đương nhiệm cũng cần ấn định rõ lịch trình cải đổi về pháp lý, chính trị cũng như thực tế phải hoàn tất chậm nhất là trước ngày chấm dứt nhiệm kỳ Quốc hội đương nhiệm (2015) chẳng hạn.
Bởi vì, nếu giả định Việt cộng chấp nhận chủ động thực hiện cách thức chuyển đổi hòa bình êm dịu trên đây, từ sau năm 2015, Việt Nam sẽ có Quốc hội mới, chính phủ mới hình thành từ và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp hiện hành sau khi được Quốc hội đương nhiệm sửa đổi theo hướng dân chủ đa đảng.
II/-NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN VÀ ĐỦ ĐỂ GIẢ ĐỊNH THÀNH HIỆN THỰC.       
Mặc dầu cách thức chuyển đổi này là cách tốt nhất, có lợi nhất không chỉ cho đảng Cộng sản Việt Nam, mà lợi cho cảnhân dân, dân tộc và đất nước, nhưng đây chỉ là một giả định, muốn trở thành sự thật, cần có những điều kiện cần và đủ sau đây:
      1.-Việt cộng chỉ chủ động làm theo cách chuyển đổi hòa bình và êm dịu này, khi nội bộ Cộng đảng Việt Nam, phe “cấp tiến”(theo chiều hướng mới) phải mạnh hơn phe“bảo thủ”. Đồng thời, trong cũng như ngoài nước các cá nhân hay tổ chức chính trị có cùng khuynh hướng đấu tranh chống cộng vì mục tiêu dân chủ hóa đất nước, cách nào đó, phải liên kết được với nhau, tập hợp và lãnh đạo được quần chúng, vận dụng được hậu thuẫn quốc tế, tập trungđược lực lượng trong, ngoài hổ trợ hiệu quả cho phe cấp tiến trong Cộng đảng Việt Nam (Như ở Liên Xô đã làm được đểhậu thuẫn hiệu quả choTổng bí thư Gorbachev và phe cấp tiến trong Cộng đảng Nga 1985-1991).
Theo nhận định của chúng tôi, căn cứ trên các sự kiện và diễn biến tình hình hiện nay thì dường như so sánh lực lượng giữa khuynh hướng cấp tiến (theo Mỹ)và bảo thủ (theo Tầu) là nghiêng ngửa trong nội bộ Cộng đảng Việt Nam. Các lực lượng quần chúng trong nước qua các cuộc dấu tranh cá nhân cũng như tập thể đòi các quyền dân sinh, dân chủ, thì đã có dấu hiệu phát triển theo chiếu hướng liên kết, tập trung lực lượng, dù còn lỏng lẻo.
      2.- Mặt khác, áp lực quốc tế, nhất là Hoa Kỳ phải làm sao tạo áp lực đủ mạnh buộc được Việt cộng chuyển đổi càng sớm càng tốt qua dân chủ đa nguyên đa đảng theo cách hòa bình và êm dịu này. Trên nguyên tắc cũng như thực tế Hoa Kỳ và các nước dân chủ trên thế giới từ lâu đã có chủ trương này, và đã có nhiều việc làm có tính tạo áp lực, thúc đẩy Việt cộng đi về hướng dân chủ.
         Tuy nhiên, cường độ còn yếu nên tốc độ chuyển đổi theo chiều hướng này còn chậm, dù có đạt được một số thành quả nhất định sau mỗi áp lực. Có lẽ vì áp lực của Hoa Kỳ nói riêng và các nước dân chủ khác nói chung còn tùy thuộc vào sự tính toán lợi ích song phương hay đa phương với Việt cộng. Nhất nữa là dường như Hoa Kỳ cũng chỉ muốn “cải tạo Việt cộng thành công cụ chiến lược mới trong vùng” theo một tiến trình thời gian với tốc độ vừa phải. Phải chăng  vì thế mà Hoa Kỳ thực hiện “chính sách cầm chừng”, thả nổi cho một tiến trình chuyển đổi từ từ, để chế độ độc tài toàn trị Việt cộng tồn tại thêm thời gian, để thuận lợi và dễ xử dụng công cụ cho mục tiêu chiến lược hơn là trong khung cảnh một chế độ dân chủ đa nguyên đa đảng, nếu hình thành sớm còn phôi thai, bất ổn và nhiều bất trắc ? Có lẽ biết vậy, nên Việt cộng (phe bảo thủ theo Tầu) đã tiếp tục ngoan cố cho đến lúc này vẫn không chịu chuyển đổi, tiếp tục thực hiện chiến thuật “Mềm nắn, rắn buông”, tìm cách diên trì tiến trình dân chủ hóa để kéo dài thêm thời gian độc quyền chính trị, ngụy biện bằng lý do cần sự ổn định chính trị để phát triển đất nước, để chỉ “Đổi mới kinh tếkhông đổi mới chính trị” là vậy.
    (Đến đây xin mở dấu ngoặc nói thêm về hệ quả chính sách can thiệp nửa vời của các cường quốc tư bản chủ nghĩa vào tiến trình dân chủ hóa các chế độ độc tài tại các nước Trung cận đông và Bắc phi. Hệ quả trực tiếp đối với các nhà độc tài đang còn nắm quyền thống trị từ nhiều thập niên tại vùng này, là sự ngoan cố tiếp tục bám giữ quyền thống trị, chống lại cao trào đòi dân chủ hóa đất nước của nhân dân. Một điển hình là tập đoàn độc tài của Tổng Thống Al-Bassad ở Syria đã ngoan cố không chịu từ bỏ quyền hành, đàn áp đẫm máu các cuộc nổi dậy của nhân dân với cường độ mức độ tàn bạo gia tăng theo thời gian hơn một năm qua. Tổng thống chế độ độc tài Al- Bassad sở dĩ ngoan cố dám chống lại nhân dân, là vì biết rằng vẫn chiếm ưu thế trong tương quan lực lượng với phe quần chúng nổi dậy, lại được sự hổ trợ của hai cựu cường quốc cộng sản hàng đầu là Nga và Tầu cộng. Trong khi Al- Bassad cũng biết rằng sẽ không có sự can thiệp trực tiếp bằng quân sự từ bên ngoài theo kiểu  Hoa Kỳ và khối NATO dưới ngọn cơ Liên Hiệp Quốc đã làm tại Lybia khoảng nửa năm trước, nên lực lượng quần chúng nổi dậy ởSyria khó thành công được bằng sức mạnh quân sự như lực lượng quần chúng nổi dậy ở Lybia là đã lật đổ được chế độ của nhà độc tài Mumamar Ghaddafi. Sự thể này cũng đã có ảnh hưởng gián tiếp ít nhiều đến sự toán tính của Việt cộng  trong việc đối phó với các lực lượng chính trị cũng như quần chúng đấu tranh đòi các quyền tự do, dân chủ, dân sinh và nhân quyền trong nước. Việt cộng toan tình rằng, cũng như tại các nước độc tài Trung cân đông và Bắc Phi, nếu không có sự hổ trợ bằng sự can thiệp trực tiếp, triệt để của bên ngoài, Cộng đảng Việt Nam vẫn dựa vào ưu thế nắm vững được nền “Độc tài chuyên chính tư sản Đỏ” (Đỏ vỏ xanh lòng)”, nên chưa vội gì mà chấp nhận nền “Dân chủ, đa nguyên, đa đảng”(tư bản chủ nghĩa).
         Tuy nhiên, Việt cộng cũng có ít nhiều nao núng và dường như trên nguyên tắc đã có sự thống nhất về “chiều hướng mới không thể đảo ngược” (theo chiến lược toàn cầu mới:chế độ độc tài các kiểu sớm muộn cũng phải tiêu vong, để hình thành các chế độ dân chủ,đa nguyên đa đảng tại các nước toàn cầu). Thực tại chỉ còn sự bất đồng giữa phe “bảo thủ” (theo Tầu cộng) và phe “Cấp tiến” (Theo Mỹ quốc) về thời điểm nào được coi là thích hợp để kết thúc quá trình chuyển đổi đã tịnh tiến tự nhiều năm qua.
         Vì vậy ngoài yếu tố kết hợp trong và ngoài nước, áp lực Hoa Kỳ và quốc tế cũng là nhân tố quan trọng có tính quyết định, hậu thuẫn phe cấp tiến, đẩy chế độ độc tài độc đảng Việt cộng phải kết thúc tiến trình chuyển đổi qua chế độ dân chủ đa nguyên đa đảng nhanh chóng hơn.
       3.- Một yếu tố có tính quyết định khác cho sự kết thúc tiến trình chuyển đổi của chế độ Việt cộng qua dân chủ đađảng, là tốc độ chuyển biến của Tầu cộng theo hướng dân chủ đa nguyên đa đảng trong “Môi trường mật ngọt kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa”.
        Nếu Tầu cộng tăng tốc, thì phe bảo thủ Việt cộng cũng tăng tốc. Tầu cộng kết thúc quả trình chuyển đổi sớm thì Việt cộng cũng sẽ kết thúc quá trình chuyển đổi sớm. Vì ai cũng thấy Việt cộng đã học và làm theo sách “chuyển đổi câu giờ” của Tầu cộng, cố bám giữ quyền lực độc quyền, độc tôn để kéo dài thêm thời gian thụ hưởng các ưu quyền đặc lợi có được và chỉ có được cho tập đoàn thống trị độc quyền (Cộng đảng VN) trong khung cảnh một chế độ độc tài đảng trị hay độc tài toàn trị  kiểu cộng sản mà thôi.
        Chính vì vậy đã có nhiều người khi thấy gần đây có một vài dấu hiệu Tầu cộng tăng tốc về phía dân chủ, thì vội lạc quan Việt cộng cũng sẽ tăng tốc theo và sớm đi đến kết thúc quá trình chuyển đổi qua chế độ dân chủ đa đảng tại Việt Nam một cách hòa bình, êm dịu. Chúng tôi cũng cảm thấy lạc quan một cách dè dặt. Chúng ta tiếp tục chờ xem diễn biến tiếp theo tình hình thực tế, với ước mong niềm lạc quan của chúng ta sớm biến thành sự thật trên đất nước chúng ta. Vì đó là ước vọng chung của trên 90 triệu nhân dân trong nước và khoảng 4 triệu con dân Nước Việt ở hải ngoại luôn hướng lòng về Tổ Quốc. Vì đó là mục tiêu tối hậu mà nhân dân trong nước và người Việt hải ngoại đã kiên trì hy sinh đấu tranh trong nhiều thập niên qua.
     4.-Nếu Việt cộng chủ động làm thì phải có những dấu hiệu chứng tỏ thực tâm bằng các hành động cụ thể thực tế tương tự như chế độ độc tài quân phiệt Miến Điện đã và đang làm.
         Tỷ như Việt cộng song song với việc sửa đổi Hiến pháp, luật pháp theo hướng dân chủ, đa đảng, Việt cộng sẽ phải có hành động cụ thể thực tế như: Thả hết các thù nhân chính trị đang bị cầm tù, chấm dứt mọi hành động theo dõi, trấn áp các nhà bất đồng chính kiến, tìm cáchđối thoại với họ và để cho mọi cá nhân công dân cũng như các chính đảng bao lâu nay bị coi là hoạt động bất hợp pháp, thì cần tiến tới hợp pháp hóa tạo điều kiện cho các cá nhân và chính đảng này hoạt động công khai, hợp pháp, có thời gian chuẩn bị đưa người ra tranh cử vào các cơ quan dân cử các cấp trong tương lai…
Chúng ta cần chờ thêm thời gian để hội đủ các điều kiện cần và đủ, về chủ quan (Việt cộng)và khách quan (Các lực lượng và quần chúng chống cộng trong nước cũng như hải ngoại và quốc tế) để cách chuyển đổi giả định “chế độ độc tài,độc đảng” Việt cộng qua “Dân chủ đa đảng” sớm trở thành sự thật tại Việt Nam.
III/-CHUYỂN BIẾN CÁC KHUYNH HƯỚNG CHÍNH TRỊ TRONG ĐA NGUYÊN ĐA ĐẢNG.
     Trong giả định chế độ dân chủ đa nguyên hình thành, các khuynh hướng chính trị sẽ tìm cách nắm quyền thông qua các cuộc bầu cử tự do. Khuynh hương chính trị nào đượcđa số cử tri tín nhiệm sẽ chiếm đa số trong các cơ quan dân cử. Nghĩa là chính lá phiếu của cử tri sẽ quyết định vị trí, vai trò của các khuynh hướng chính trị trong guồng máy công quyền quốc gia. Để thích dụng, hai khuynh hướng chính trị quốc gia và cộng sản sẽ chuyển biến ra sao?
     Như chúng tôi đã trình bầy trong cuốn tài liệu nghiên cứu lý luận “Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới” (ấn hành lần đầu năm 1995 và tái bản năm 2005) thì nội bộ Việt cộng cũng như Việt quốc sẽ biến chuyển như sau:
1.- Về phía Việt cộng.
     Theo nhận định của chúng tôi thì sau khi Liên Xô và các nước Xã Hội Chủ Nghĩa Đông Âu sụp đổ, nội bộ Cộng đảng Việt Nam tồn tại 3 khuynh hướng:
- Bảo thủ: bảo vệ chế độ nhất nguyên Xã Hội Chủ Nghĩa đến cùng, cũng có nghĩa là bảo vệ quyền thống trị độc tôn, độc tài cho đảng Cộng sản Việt Nam để tiếp tực duy trì các ưu quyền đặc lợi cho giai cấp thồng trị là các cán bộ đảng viên cộng sản.
- Cấp tiến trung dung: chấp nhận chuyển đổi qua dân chủ đa nguyên một cách chủ động theo nhịp độ  và tốc độ phù hợp với diễn biến tình hình quốc nội và quốc tế (mềm nắn, rằn buông) để kéo dài tuổi thọ thêm ngày nào tôt ngày ấy, bảo đảm được quyền lợi và an toàn pháp lý, chính trị và thực tiễn cho Đảng cầm quyền và cho các đảng viên cộng sản.Nói đơn giản bình dân là “chuyển đổi câu giờ” và tìm cách “hạ cánh an toàn” vào thời điểm thích hợp chẳng đặng đừng không còn níu kéo được nữa. Khuynh hướng cấp tiến trung dung này luôn biểu tỏ cho người ta ngầm hiểu rằng họ cũng biết “chiều hướng mới không thể đảo ngược”(thị trường tự do và dân chủ hóa toàn cầu), phải chuyển đổi, nhưng cần có thời gian đễ sự chuyển đổi diễn ra một cách hòa bình, tránh xáo trộn, xung đột gây bất ổn chính trị, xã hội có hại cho Đất nước (thực ra là có hại cho tập đoàn thống trị Cộng đảng Việt Nam…)
- Cấp tiến triệt để: Cần hủy bỏ ngay chế độ nhất nguyên xã hội chủ nghĩa chuyển đổi ngay qua chế độ dân chủ đa nguyên đa đảng theo gương Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu.
        Trong ba khuynh hướng chính trị trên đây, vào thời điểm này, khuynh hướng bảo thủ đã tiêu vong, vì biết rằng nhất nguyên XHCN không thể và không bao giờ còn thực hiện được; và chiều hướng mới không thể đảo ngược nên đành chấp nhận sát nhập vào khynh hướng cấp tiến trung dung, mặc dầu bề ngoài vẫn “nhất trí” treo bảng hiệu “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” (theo kiểu gian thương treo đầu dê bán thịt chó),vẫn thể hiện quyết tâm xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa bằng con đường làm ăn “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (dù biết rằng con đường này thực tế tất yếu dẫn đến tưbản chủ nghĩa với chê độ dân chủ đa nguyên là tất nhiên). Còn khuynh hướng “Cấp tiến triệt để” thì đã bị hai khuynh hướng kia loại ra khỏi quyền lực từ lâu, ngay sau khi Liên Xô sụp đổ, với một Trần Xuân Bách, Ủy Viên Bộ Chính Trị, dự bị Tổng Bí Thư  CộngĐảng Việt Nam thay Nguyễn Văn Linh, song đã bị triệt hạ vì đã muốn trở thành một Mikhail Gorbachev của Việt Nam, khi đưa ra quá sớm chủ trương “Đổi mới kinh tếsong song với đổi mới chính trị” trái ngược với chủ trương “Chỉ đổi mới kinh tế không đổi mới chính trị”của hai khuynh hướng bảo thủ và cấp tiến trung dung trong Cộng Đảng Việt Nam. Tuy không nắm được quyền lực, là thiểu số nhưng khuynh hướng cấp tiến triệt để hiện nay vẫn còn tồn tại dấu mặt trong Cộng Đảng Việt Nam để chờ thời cơ đến.
     Nêu trong giả định ngay bây giờ Việt cộng chấp nhận đa nguyên đa đảng, khuynh hướng cấp tiến trung dung sẽ đóng vai trò trung tâm có thể thu hút trở lại khuynh hướng cấp tiến triệt để, tạo thành một khuynh hướng mạnh. Để phù hớp với khung cảnh chính trị đa nguyên, đa đảng, khuynh hướng này bề ngoài có thể vẫn giữ nguyên tên “Đảng Cộng Sản Việt Nam” hay đổi thành “Tân Đảng Cộng Sản Việt Nam” hay phù hợp thực tế (khung cảnh chế độ dân chủ đa nguyên) và thực chất một đảng nặng tính xã hội, song biết tôn trọng dân chủ (không còn độc tài, độc tôn như trong chế độ nhất nguyên XHCN trước đây) thì có thể đổi tên “Đảng Cộng Sản Việt Nam” thành “Đảng Xã Hội Dân Chủ Việt Nam” hay một tên nào khác thích hợp hơn, để đưa người ra tranh cử vào các chức vụ dân cử các cấp từ trung ương đến địa phương.
2.- Về phía Việt Quốc.
Bây giờ nhận định về các khuynh hướng chính trị của các lực lượng Việt quốc trong cũng như ngoài nước bao lâu nay chống chế độ độc tài dộc đảng “nhất nguyên xã hội chủ nghĩa”,để xem trong giả định cộng sản chấp nhận đa nguyên, đa đảng, các khuynh hướng này sẽ chuyển biến ra sao?
Nếu so sánh với các khuynh hướng trongđảng Cộng Sản Việt Nam đương quyền, người ta cũng thấy dường như cũng có sự tương đồng tính chất với ba khuynh hướng: Bảo thủ, cấp tiến trung dung và cấp tiến triệt để.
-       Bảo thủ: Bảo vệ chính nghĩa quốc gia đến cùng, không nhân nhượng, không hòa giải hòa hợp hay liên hiệp với Việt cộng, đấu tranh một mất, một còn cho đến ngày toàn thắng.
-       Cấp tiến trung dung: Vừa đấu tranh vừa kêu gọi Việt cộng phản tỉnh quay về với cội nguồn dân tộc để cùng nhau thiết lập một chế độ tự do dân chủ, một đất nước phát triển toàn diện đến giầu mạnh. Do đó, chỉ cần người cộng sản Việt Nam“phản tỉnh”, có hành động thiện chí, khả tín, thì sẵn sàng, đối thoại để hóa giải mọi mâu thuẫn về lãnh đạo dân tộc từ qua khứ đến hiện tại, tiến tới hòa giải dân tộc thực sự.
              Đây là nỗ lực chung từ hai phía để thực hiện “Hòa giải và hòa hợp dân tộc chủ động hai chiếu”; Nó hoàn toàn khác với chủ trương “Hòa giải và hòa hợp dân tộc”bao lâu nay của Việt cộng “Hòa giải và hòa hợp dân tộc một chiều”. Nghĩa là “Không có sự hòa giải” (là giải quyết những mâu thuẫn một cách hòa bình) mà chỉ có hòa hợp với Việt cộng ( hợp tác với Việt cộng vô điều kiện) để cùng thực hiện mục tiêu riêng của Việt cộng là xây dựng, củng cố chế độ độc tài đảng trị “Nhất nguyên Xã Hội Chủ Nghĩa” tại Việt Nam mà thôi.
   3.-Cấp tiến triệt để: Vì nóng lòng muốn có một chế độ dân chủ đa nguyên chođất nước, lại mặc cảm trước ưu thế của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đương quyền, nên đã, đang và lúc nào cũng sẵn sàng đáp ứng chủ trương “Hòa giải và Hòa hợp dân tộc một chiều”của Việt cộng. Trên thực tế, khuynh hướng cấp tiến triệt để này đôi khi đã có những hành động nóng vội đáp ứng những lời kêu gọi mơ hồ của Việt cộng, rằng “hãy xóa bỏ hận thù, quên quá khứ, hòa giải và hòa hợp dân tộc, cùng nhau hướng về tương lai xây dựng  và phát triển đất nước” dù vẫn trong khung cảnh chế độc độc tài, độc đảng tại Việt Nam.
        Trong ba khuynh hướng trên,từ lâu hai khuynh hướng bảo thủ và cấp tiến trung dung tuy bất đồng nhưng vẫn ở thế liên kết đấu tranh. Trong khi khuynh hướng cấp tiến triệt để thì bị cô lập, thúc thủ chờ cơ hội Việt cộng đưa ra những lời mời chào mới để đáp ứng vô điều kiện, có tính chụp giật thời cơ cầu may. Tuy nhiên, khách quan mà nói, cả ba khuynh hướng trên đếu có chung lập trường quốc gia, dân tộc, dân chủ và mục tiêu đấu tranh chung: dân chủ hóa và phát triển toàn diện đất nước, có khác chăng là phương cách thành đạt mục tiêu chung này. Nhưng cũng chính sự khác biệt phương cách, đã dẫn đến sự phân hóa nội bộ các lực lược quốc gia, dân tộc dân chủ, dẫn đến với những xung đột triền miên, làm suy yếu nội lực Việt quốc.
  Bây giờ trong giả định nếu Cộng sản Việt Nam chấp nhận đa nguyên đa đảng, các khuynh hướng Quốc gia Dân tộc Dân chủ sẽ chuyển biến ra sao?
      Vẫn theo nhận định của chúng tôi, khuynh hướng quốc gia dân tộc dân chủ cấp tiên trung dung sẽ là khuynh hướng trung tâm, có sức thu hút không những hai khuynh hướng bảo thủ và cấp tiến triệt để,mà trong chừng mực nào đó còn lôi kéo được những người cộng sản“phản tỉnh” quay về với khuynh hướng dân tộc. Vì thành phần này sau khi “phản tỉnh”đều có chung lợi ích dân tộc với Việt quốc và đều có động lực chung là lòng ái quốc. Nếu các khuynh hướng này kết hợp chặt chẽ được với nhau thì sẽ trở thành một trung tâm quyền lực thứ hai (quốc gia, dân tộc, dân chủ, xã hội) trên chính trường dân chủ đa nguyên Việt Nam, không mạnh hơn thì ít ra cũng nghiêng ngửa với trung tâm quyền lực chính trị thứ nất (Việt cộng biến chất thành xã hội dân chủ). Với thế lực này , trung tâm quyền lực “quốc gia, dân tộc, dân chủ, xã hội” sẽ có cơ hội đánh bại trung tâm quyền lực “Việt cộng xã hội dân chủ. Hay ít ra cũng tạo được thế đối lập mạnh, có thể quân bình được cán cân quyền lực trong nền chính trị dân chủ đa nguyên hậu cộng sản.
     Tuy nhiên, thế liên kết trên đây, trên thực tế vẫn chỉ là một ước muốn của các lực lượng quốc gia, dân tộc dân chủ.
     Vì thực tế trước 30-4-1975, mặc dầu các khuynh hướng chính trị trong chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam Việt Nam, đều đứng chung trên lập trường quốc gia, dân tốc, dân chủ, cùng có mục tiêu chung là chống cộng vì lý tưởng tự do dân chủ, cùng chiến đấu bào vệ chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng, song thực sự đã không liên kết được với nhau để cuối cùng mất Miền Nam vào tay Cộng sản Bắc Việt. Sau đó, cuộc đấu tranh cho mục tiêu dân chủ hóa Đất nước kéo dài 37 năm qua, liên kết các lực lược Quốc gia Dân tộc Dân chủ trong một tổ chức thống nhất từ trong nước ra hải ngoại để cùng đấu tranh theo một sách lược chung hữu hiệu vẫn còn là một ước muốn của các chính đảng, các tổ chức đấu tranh và quần chúng chống cộng vì tự do dân chủ cho Quê Mẹ Việt Nam.
Vậy thì, nếu ngay lúc này, Việt cộng chấp nhận dân chủ đa nguyên đa đảng, thực tế chắc chắn vẫn còn khác với ý muốn chung.Các khuynh hướng chính trị quốc gia dân tộc dân chủ sẽ không liên kết kịp hay nếu liên kết được vẫn còn còn lỏng lẻo, chưa đủ thực lực để chiếm được đa số áp đảo trong các cơ quan dân cử từ đia phương đến trung ương, so với đối thủ Việt cộng (Đảng Cộng sản Việt Nam biến chất).
        Bởi vì, mặc dầu có chung lập trường, mục tiêu và lý tưởng đấu tranh, song vì những khác biệt, bất đồng về quan điểm và phương thức đấu tranh; nhất là vì lợi ích cá nhân, cục bộ, bè phái, các chính đảng, doàn thể quần chúng đấu tranh có thể sẽ giữ thế độc lập và biệt lập khi đưa người ra tranh cử. Hệ quả ai cũng thấy được là phía các lực lượng quốc gia dân tộc dân chủ sẽ rơi vào tình trạng “lạm phát ứng cử viên”, phiếu cử tri ủng hộ bị phân tán mỏng. Trong khi phía lực lượng xã hội dân chủ (Đảng Cộng sản biến chất hay đảng xã hội dân chủ) vốn có ưu thế đã cầm quyền trong một thời gian lâu dài, lại là một đảng có tính kỷ luật cao, có kinh nghiệm đấu tranh, tuyên truyền lôi kéo quần chúng, nhất là vị lợi ích sống còn của một tập thể đảng viên đông đảo, họ sẽ có chiến lược và chiến thuật tranh cử thích hợp, hữu hiệu, với số ứng cử viên tương xứng trong các đơn vị bầu cử để có đa số phiếu bầu thắng cử vào các cơ quan dân cử các cấp.
      Như vậy, vì không liên kết hay liên kết lỏng lẻo, cả chiều rộng lẫn chiều sâu, các ứng viên thuộc các lực lượng quốc gia dân tộc dân chủ dễ bị đánh bại trong các đơn vị bầu cử các cấp. Liên kết chiều rộng là qui tụ được hầu hết các lực lượng Quốc gia Dân tộc Dân chủ trong một chiến lược tranh cử chung, vẫn giữ độc lập về tổ chức song không biệt lập trong các hoạt động tranh cử. Liên kết chiều sâu là thống nhất trong một bộ tham mưu chỉ đạo thực hiện chiến thuật tranh cử, phân công, phân nhiệm thực hiện mục tiêu và lý tưởng chung (Đấu tranh chính trị,tranh thủ nhân tâm, đấu tranh nghị trường để bảo vệ quan điểm chính trị, thuyết phục được quần chúng cử tri…).
      Vì thiếu liên kết chiều rộng, nên mạnhđảng phái, tổ chức chính trị, tôn giáo nào cũng đưa người ra tranh cử và cá nhân mạnh ai nấy ra ứng cử, phiếu bầu bị phân tán và ứng viên sẽ thất cử. Nếu thiếu liên kết chiều sâu, sẽ không tạo được sự tin tưởng lẫn nhau, không tranh thủ và tập hợp được quần chúng ủng hộ khuynh hướng chính trị của mình. Các lực lượng Quốc gia Dân tộc Dân chủ sẽ mất cơ hội nắm quyền thông qua lá phiếu cử tri bằng phương thức dân chủ.
IV/- KẾT LUẬN:
       Dầu muốn dầu không nền dân chủ đa nguyên đa đảng sớm muộn cũng sẽ phải hình thành tại Việt Nam. Bây giờ là một giả định, tương lai sẽ là một thực tại.
       Với hiện trạng các lực lượng Quốc gia Dân tộc Dân chủ trong và ngoài nước hiện nay, nếu giả định ngay bây giờ Việt cộng chấp nhận đa nguyên đa đảng, khuynh hướng xã hội dân chủ (cộng sản phản tỉnh) vẫn có nhiều cơ hội chiếm đa số trong các cơ quan dân cử từ trung ương đến các địa phương. Và vẫn sẽ là lực lượng lãnh đạo guồng máy công quyền quốc gia trong chế độ dân chủ đa nguyên.
Hơn ai hết, thiết tưởng những người lãnh đạo các chính đảng, các tổ chức chính trị cũng như cá nhân có khuynh hướng Quốc gia Dân tộc Dân chủ, là những người từ lâu đã nhìn thấy vấn đề: Liên kết là điều kiện tiên quyết để bảo đảm cho mọi thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh chung. Hiển nhiên Quý vị đã biết phải làm gì và cần làm gì để giành thắng lợi trên chính trường và nghị trường, một khi giả định “Nếu Việt cộng chấp nhận dân chủ đa nguyên đađảng” trở thành sự thật. Một sự thật sớm muộn sẽ xẩy ra, chỉ còn là vấn đề thời gian. Vì đó đã là một tất yếu, một chiều hướng mới không thể đảo ngược “kinh tế thị trường tự do và chính trị dân chủ hóa toàn cầu”.
Thiện Ý
Viết lần đầu năm 1997 đã đăng tải trên Việt Báo ở Houston.
Viết lại tháng 11- 2012.

Không có nhận xét nào: