Pages

Thứ Ba, 1 tháng 11, 2011

Nguyên phó Thủ tướng Vũ Khoan – Phẩm chất đầu tiên: sống tử tế


Vào thời điểm đã có thể thảnh thơi sau khi rời khỏi chính trường, có thể bình tĩnh chiêm nghiệm cuộc đời, mở rộng cánh cửa và lắng nghe những ngọn gió thời cuộc thổi qua căn nhà yên tĩnh của gia đình, thì ông lại thấy mình phải làm gì đó, vì không thể quay lưng với cuộc sống.
Ông hầu như ít khi từ chối những cuộc gặp mặt và giao lưu với thế hệ trẻ?
Có thể nói, công việc thú vị nhất của tôi hiện nay là tiếp xúc thanh niên, sinh viên, học sinh. Điều đó giúp tôi có thêm hiểu biết và nhất là cảm nhận được hơi thở của cuộc sống… Thế hệ trẻ ngày nay có kiến thức rộng, cởi mở, mạnh dạn hơn thế hệ chúng tôi nhiều; cách suy nghĩ, lập luận cũng thẳng thắn hơn, không vòng vo hay né tránh, nhất là trên các vấn đề hóc búa. Những lợi thế đó của các bạn trẻ luôn cuốn hút tôi. Mỗi lần gặp gỡ, đối thoại với các cháu, tôi đều thấy phấn chấn, vui vẻ như mình trẻ lại và tin tưởng hơn vào tương lai của đất nước.
Tiếp cận thế hệ trẻ là tiếp cận với tương lai. Thế hệ trẻ giúp mình “bắt mạch” được nhịp sống, mang lại cho mình sức trẻ, khiến mình cảm thấy chưa bị cuộc sống đào thải và như vậy, đỡ tủi thân hơn!

Trong rất nhiều vấn đề được đặt ra tại các cuộc đối thoại giữa hai thế hệ, mối quan tâm nào của thế hệ tương lai đồng thời cũng là mối quan tâm đặc biệt của riêng ông?
Vấn đề sử dụng người tài. Theo tôi nghĩ, có thể nhìn vấn đề này từ bốn góc độ. Thứ nhất, phải trả lời được câu hỏi: có thật lòng cần họ không và cần những loại nhân tài nào? Có người nói, khi đã cầu hiền tức là thừa nhận mình dốt, vậy điều trước hết là phải chấp nhận người ta giỏi hơn mình cái đã. Thứ hai, đã cầu hiền thì phải tạo môi trường, điều kiện cho người ta cống hiến bằng cách giao cho họ những công việc có giá trị đích thực, đòi hỏi gay gắt và đánh giá đúng công việc họ làm vì người tài thích được đòi hỏi, thậm chí đòi hỏi khắt khe. Thứ ba, cần có sự đãi ngộ thoả đáng. Người tài thường không đòi hỏi vật chất nhiều đâu mà điều quan trọng hơn với họ là sự tôn trọng. Thứ tư, phải rộng lượng vì người tài hay có tật. Nếu vì tật nhỏ mà rũ bỏ thì thật hoài phí – những tật không ảnh hưởng tới công việc, không trái với nhân cách làm người, chẳng hạn tật hay cãi. Các cuộc họp mà không có người cãi thì chán lắm! Đã dám dùng người tài thì phải biết chịu nghe họ. Ai cũng vậy, có chịu nghe người khác thì mới trưởng thành được, vì làm gì có ai thông tường mọi thứ?
Một khía cạnh nữa về nhân tài còn ít được đề cập đúng mức. Đó là bản thân nhân tài phải có hoài bão, phải dấn thân, ham mê học hỏi, tìm tòi, sáng tạo, sống lương thiện chứ không nên chỉ đòi hỏi một chiều ở xã hội. Ai cũng thế thì lấy đâu ra nhân tài để làm cho đất nước giàu mạnh, từ đó có khả năng đãi ngộ xứng đáng nhân tài?
Từ một phiên dịch trẻ tuổi, ông đã sớm được thừa nhận, điều đó có ảnh hưởng đến quan niệm sử dụng người tài của ông sau này?
Phải nhận biết và tìm cách triệt phá cái xấu thì cái đẹp, cái tốt mới tồn tại được. Nếu cứ theo đuổi những thứ hoành tráng bề ngoài theo tâm lý vĩ cuồng thì nước ta còn nghèo túng, lạc hậu dài dài…
Tôi không phải là người tài nhưng được người tài sử dụng. Là phiên dịch, tôi được tiếp xúc và học hỏi nhiều ở các vị tiền bối anh minh như Bác Hồ, các đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp… Tôi trưởng thành lên được vì đã được giao những công việc khó và được đòi hỏi cao. Vào cuối những năm 1980 thế kỷ trước, khi là vụ trưởng rồi trợ lý bộ trưởng, tôi đã được ông Nguyễn Cơ Thạch lúc đó là phó chủ tịch hội đồng Bộ trưởng kiêm bộ trưởng Ngoại giao giao cho nhiều việc “trái khoáy” buộc tôi phải vượt qua chính mình. Những thử thách ấy buộc tôi phải học tập, nghiên cứu, đi vào cuộc sống, từ đó trưởng thành; những kiến thức và kinh nghiệm thâu lượm được đã giúp tôi đỡ lúng túng khi giữ các cương vị lãnh đạo trái nghề như thương mại chẳng hạn.
Rời chính trường khi đang ở cương vị phó Thủ tướng phụ trách đối ngoại, đang được nhiều người dân kỳ vọng, ông sẽ tiếp tục tham gia công tác lãnh đạo và có nhiều đóng góp lớn cho đất nước, lúc đó tâm trạng ông ra sao?
Đơn giản là đến tuổi thì nên nghỉ, đồng thời mình là cán bộ, đảng viên thì phải chấp hành nghiêm chỉnh quy định của tổ chức. Mỗi người phải biết lượng sức, đừng bao giờ nghĩ mình là người không thay thế được. Tôi luôn tâm niệm: “Không nên biết cách lên”, nhưng nhất định phải “biết cách xuống” đúng lúc và đúng cách.
Mỗi cá nhân phải biết dừng đúng lúc, đúng cách. Nếu đẻ ra ngoại lệ sẽ sinh lắm chuyện lôi thôi. Người ta phải biết cách sống, không phải mọi điều mình muốn đều có thể.
Tâm thế của ông lúc này? Có hay không cái gọi là “nỗi buồn thế sự”?
Nhà thơ Việt Phương:
“Tôi đã có quá trình lâu dài được biết về anh Vũ Khoan trên nhiều cương vị và thấy đó là một người nhân cách rất tốt và rất có năng lực, giỏi trong công tác đối ngoại và giỏi trong các công việc ở cương vị phó Thủ tướng”.
Thứ trưởng bộ Ngoại giao Nguyễn Phương Nga:
“Ông hội tụ tất cả những phẩm chất mà người ngoại giao cần có. Một tấm gương tận tuỵ vì công việc, vì sự nghiệp chung. Đặc biệt, bằng con đường tự học, ông thực sự đã trở thành một pho từ điển sống, một bộ óc tư duy sáng tạo. Trong cuộc sống, đó là một người cha, người chú bình dị, chân thành, luôn chia sẻ và sát cánh cùng cấp dưới”.
Nhà báo Hồ Quang Lợi:
“Với phông kiến thức rộng, hiểu biết sâu sắc về đời sống và các quan hệ quốc tế, các vấn đề ông đề cập bao giờ cũng tiệm cận nhất với bản chất vụ việc. Bản thân ông cũng là một nhà báo, với những bài báo rất có duyên, có bản sắc, văn phong mềm mại. Ông rất cởi mở, thoải mái và luôn là một người bạn thực sự của báo chí”.
Tôi cứ ngẫm nghĩ mãi. Mình cứ nói chế độ mình dân chủ hơn triệu lần, mình là lương tri của thời đại… nhưng sự thật thì nhiều việc, nhiều người chưa thể hiện được điều đó. Nhiều người đã đánh mất “gen xấu hổ”. Làm hỏng việc không xin lỗi, không từ chức, ra đường thì chen chúc, phóng uế bậy bạ, thấy hoa đẹp thì vặt bẻ không thương tiếc, người gặp tai nạn thì xông vào hôi của, quan chức thì tham nhũng vơ vét, “văn hoá phong bì” tràn lan, tệ “chạy” lây lan sang mọi lĩnh vực… Do đó có lẽ không nên nói quá nhiều những chuyện cao xa mà hãy “học làm người tử tế” đã. Tôi hay khuyên các cháu thanh niên rằng, trước hết hãy cố nói chứ đừng chửi thề, nhặt rác chứ đừng vứt rác, trồng cây chứ đừng chặt cây, đi chứ đừng chen… Không làm người lương thiện thì khoan nói đến chuyện lý tưởng, hoài bão!
Có phải một trong những “phương cách tồn tại” của xã hội hiện nay là… tránh nói chuyện xấu?
Vấn đề này không mới. Bản thân tôi khi đang làm việc cũng đã rất trăn trở. Đâu đâu cũng “tránh nói việc xấu”, sợ “vạch áo cho người xem lưng”, chỉ muốn khen và được khen. Vấn đề là phải nhận biết và tìm cách triệt phá cái xấu thì cái đẹp, cái tốt mới tồn tại được. Nếu cứ theo đuổi những thứ hoành tráng bề ngoài theo tâm lý vĩ cuồng thì nước ta còn nghèo túng, lạc hậu dài dài…
Đi ra thế giới nhiều, nhìn lại, ông đánh giá ra sao về hình ảnh chính khách Việt?
Nói đúng ra thì cán bộ lãnh đạo của ta chủ yếu là cán bộ chính trị, chuyên môn, chưa được bồi dưỡng những kỹ năng của chính khách. Cần phải coi làm chính trị là một nghề, do đó phải đào tạo bài bản: từ cách ăn, cách nói, cách trả lời phỏng vấn, ra quyết định, điều khiển cuộc họp, tiến hành đàm phán… Phải làm sao tạo dựng được “văn hoá chính khách” chứ không thể mang “văn hoá đường phố” vào chính trường được. Đáng buồn là các học viện của ta và toàn bộ nền giáo dục thường không chú trọng việc đào tạo kỹ năng cho nên toàn bộ công, viên chức của ta thiếu tính chuyên nghiệp.
Phẩm chất số một của nhà ngoại giao là gì, thưa ông?
Bên cạnh sự kiên định, khéo léo là sự chân thành. Kiên quyết, sắc sảo đến mấy vẫn nên chân thành, chân thành cả khi không đồng tình với đối tác. Sự xảo trá chẳng lừa được ai, chỉ tạo ra tình trạng mất lòng tin.
Ông từng nói rằng, hiện nay công tác đối ngoại rất cần “trái tim nóng và cái đầu lạnh”. Với vấn đề chủ quyền biển đảo, cách ứng xử nào ông cho là thích hợp?
Người ta nói “không có bạn vĩnh viễn, không có thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích vĩnh viễn”. Do đó mình phải xác định cho thật rõ lợi ích của mình ở đâu. Lúc này lợi ích tối cao của ta là giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đi đôi với yêu cầu duy trì môi trường quốc tế thuận lợi để thực hiện dân giàu, nước mạnh. Hai lợi ích ấy gắn bó mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, không thể xem nhẹ mặt nào. Làm sao xây dựng được nếu chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ bị xâm hại; ngược lại làm sao bảo vệ được chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được nếu không tranh thủ được môi trường thuận lợi để phát triển? Khi làm bạn với ai cũng nên hiểu rằng họ có lợi ích riêng, khi lợi ích của họ và của mình song trùng thì gắn kết với nhau, ngược lại thì họ vẫn lo cho lợi ích bản thân thôi. Nghe thì có vẻ thực dụng song cuộc sống là vậy, ta cũng đã có nhiều bài học về mặt này. Nói thì dễ nhưng làm không dễ, do đó, hơn lúc nào hết, cùng với bầu nhiệt huyết cần cái đầu lạnh, sự tỉnh táo, thông minh, khôn khéo.
Về đối nội, đây là thời điểm nợ nần nhiều, sản xuất hầu như rất ít phát triển, tài nguyên cạn kiệt… ông có cho rằng tình hình trên hoàn toàn có thể điều chỉnh được trong nay mai?
Tôi thấy gần đây thường xuyên có quá nhiều các cuộc hội thảo, các bài phát biểu về “tái cơ cấu nền kinh tế” đến mức hoa cả mắt, ù cả tai! Nhưng cơ cấu thế nào và nhất là bằng cách gì thì vẫn chưa rõ. Tôi rất ngại căn bệnh nói theo thời thượng, theo phong trào nhưng nội hàm mỗi người hiểu một kiểu, cách làm càng tù mù hơn. Ví dụ gần đây có “phong trào” phát triển công nghiệp phụ trợ nhưng không rõ phụ trợ cho cái gì, hiệu quả ra sao, tiêu thụ ở đâu, giá thành thế nào… Không khéo sẽ lại hỏng việc. Nghe nói một trong ba nhiệm vụ cải tổ Vinashin là phát triển công nghiệp phụ trợ cho công nghiệp đóng tàu, nhưng nếu sản phẩm phụ trợ ấy làm ra chỉ cung cấp cho Vinashin hay công nghiệp đóng tàu cả nước đi nữa thì dung lượng thị trường cũng không lớn, do đó, giá thành rất cao và sẽ lỗ nặng. Muốn giá thành hạ thì phải sản xuất trên quy mô đủ lớn, len được vào chuỗi giá trị toàn cầu mới hy vọng có hiệu quả. Đó là còn chưa nói đến chất lượng!
Giữa các vấn đề kinh tế và xã hội, nỗi lo của ông “bên nào nặng hơn”?
Hai mặt đó gắn bó mật thiết với nhau song theo tôi, vấn đề kinh tế không đáng lo bằng các vấn đề xã hội. Hiện có nhiều điều bất ổn quá. Những khó khăn về kinh tế đã dội vào xã hội, vào lòng người, dẫn đến hành vi con người có khi cực đoan… Những bất ổn về tâm lý xã hội ấy có thể gây tác động xấu trở lại nền kinh tế.
Ông có cho là ở giai đoạn “lửa thử vàng” hiện nay, các điều kiện kinh tế – xã hội cụ thể, đã hoặc đang thúc đẩy việc hình thành, xuất hiện những phẩm chất mới của dân tộc Việt?
Cần phải coi làm chính trị là một nghề, do đó phải đào tạo bài bản: từ cách ăn, cách nói, cách trả lời phỏng vấn, ra quyết định, điều khiển cuộc họp, tiến hành đàm phán… Phải làm sao tạo dựng được “văn hoá chính khách” chứ không thể mang “văn hoá đường phố” vào chính trường được.
Phẩm chất dân tộc là một phạm trù rộng lớn và phức tạp. Có những phẩm chất được hun đúc, tích tụ qua hàng ngàn năm, chắt lọc qua nhiều thế hệ. Theo dòng chảy của thời gian và điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội ở trong nước lẫn trên thế giới thay đổi không ngừng đã nảy sinh những phẩm chất mới hoặc làm thay đổi những phẩm chất vốn có. Thật là khó để xác định được những phẩm chất mới của dân tộc lúc này, có lẽ đây là một đề tài đáng nghiên cứu nghiêm túc. Và phải có những phẩm chất vĩnh cửu, trong đó phẩm chất đầu tiên cần có là sống tử tế, hướng thiện, diệt ác, hay nói nôm na là “người phải ra người”.
Từng gọi mình là “tội đồ” vì đã tham gia Chính phủ mà chưa đóng góp được hữu hiệu vào việc hạn chế, ngăn chặn tình trạng hao công tốn của khi đầu tư công không hiệu quả. Lúc này, điều gì khiến ông nuối tiếc nhất?
(trầm ngâm) Giá đừng để mất cân đối vĩ mô nghiêm trọng và kéo dài thì tốt. Về một số mặt, kinh tế vĩ mô chúng ta đang đối mặt với nhiều khó khăn, bất ổn khá nghiêm trọng. Ở đây có nguyên nhân từ bên ngoài, có nguyên nhân sâu xa của nền kinh tế đã tồn tại từ lâu, có nguyên nhân trực tiếp do điều hành. Về đối ngoại, chúng ta cũng đang đứng trước không ít khó khăn, thách thức. Những khó khăn ấy đương nhiên gây ra sự phân tâm về chuyện này hay chuyện khác. Lạc quan nhẹ dạ thì không nên nhưng bi quan quá mức cũng chẳng phải, vì dù sao “lực” và “thế” của nước ta đã khác trước nhiều rồi. Hơn thế nữa, người Việt ta mỗi khi gặp khó khăn, thử thách thì đều vượt qua được theo tinh thần “cái khó ló cái khôn”. Việc “dám” điều chỉnh nghị quyết Đại hội, giảm mục tiêu tốc độ tăng trưởng để lấy lại cân đối vĩ mô là một biểu hiện đáng hoan nghênh về “cái khôn” đã hé lộ!
Cảm ơn ông!

Không có nhận xét nào: