Pages

Thứ Sáu, 2 tháng 12, 2011

Politics: Chính trị Hoa Kỳ – Tam Quyền Phân lập

Điện Capitol, Trụ sở Quốc hội Hoa KỳPhạm Anh Tuấn – (TTHN)

Chính quyền liên bang được thiết lập bởi Hiến pháp Hoa Kỳ. Hiện nay hai đảng chính trị lớn, Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hoà, thống trị trên nền chính trị Hoa Kỳ mặc dù vẫn tồn tại các nhóm hoặc các đảng chính trị với ít ảnh hưởng quan trọng hơn.
Hiến Pháp
Hiến pháp Hoa Kỳ là bộ luật tối cao của nước Hoa Kỳ. Nó là bản hiến pháp đầu tiên của thế giới được soạn thảo ngày 17 tháng 9, 1787 dựa trên tư tưởng tam quyền phân lập giữa ba nhánh lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Tổng thống) và tư pháp (tòa án) do Montesquieu, một triết gia người Pháp đề xướng. Nó được phê chuẩn sau các cuộc hội nghị tại 13 tiểu bang đầu tiên.
Cùng với Tuyên ngôn Độc lập viết năm 1776, bản hiến pháp này đã thể hiện tinh thần khoa học, tiến bộ và nhân bản của người Mỹ trong việc xây dựng một nhà nước cộng hòa đầu tiên trên thế giới trong lịch sử cận đại.

Quốc hội
Hạ viện
Quyền lực chính của Hạ viện là xét duyệt và thông qua các dự án liên bang có ảnh hưởng đến toàn bộ đất nước, mặc dù các dự luật cũng phải được Thượng viện thông qua và đựợc Tổng thống đồng ý trước khi trở thành luật (trừ khi cả Hạ viện và Thượng viện thông qua các lần sau với đa số hai phần ba trong mỗi viện). Hạ viện có quyền đưa ra các hóa đơn doanh thu, buộc tội các quan chức, và bầu Tổng thống trong trường hợp bế tắc của cử tri đoàn.
Mỗi tiểu bang được số dân biểu tương ứng với tỷ lệ dân số, nhưng ít nhất là một dân biểu. Tiểu bang đông dân nhất, California, hiện có 53 đại diện. Tổng số dân biểu là 435. Nhiệm kỳ của dân biểu là hai năm. Người phát ngôn của Hạ viện, theo truyền thống là lãnh đạo của đảng chiếm đa số, được bầu bởi các dân biểu của Hạ viện.
Hạ viện hội họp ở cánh phía nam, và Thượng viện hội họp ở cánh phía bắc của tòa nhà Capitol.
Thượng viện
Mỗi tiểu bang, bất kể dân số, có hai thượng nghị sĩ, vì có năm mươi tiểu bang, Mỹ có 100 thượng nghị sĩ phục vụ sáu năm. Mỗi hai năm, khoảng một phần ba của Thượng viện được bầu lại.
Tư pháp
Hoa Kỳ là một hệ thống liên bang, với một tòa án liên bang và các tòa án tiểu bang. Mặc dù có sự khác biệt quan trọng giữa các tòa án liên bang và tòa án tiểu bang, họ có một số đặc điểm chung.
Thẩm quyền của các tòa án này dựa trên địa lý và chủ đề. Mỗi hệ thống có các Toà án phúc thẩm. Các tòa án này xét xử phúc thẩm từ các tòa án sơ thẩm. Bên thua kiện có quyền kháng cáo khi tòa án cấp dưới đã xử sai. Thông thường, bên thua kiện được quyền kháng cáo một lần. Mỗi hệ thống tòa án có một tòa án tối cao, nghe kháng cáo từ tòa án phúc thẩm. Tòa án Tối cao quyền xét không xét các kháng cáo.
Thẩm phán liên bang được bổ nhiệm bởi Tổng thống, và phải được đa số Thượng viện chấp thuận. Họ có quyền phục vụ trọn đời, lương của họ không được giảm, và chỉ có thể bị bãi chức nếu phạm tội nghiêm trọng, thông qua quá trình luận tội. Điều này đòi hỏi Hạ viện luận tội và kết án bởi hai phần ba Thượng viện. Trong hơn 200 năm, chỉ có bảy thẩm phán liên bang đã bị bãi chức.
Tổng thống
Tổng thống là người đứng đầu chính phủ Hoa Kỳ. Tổng thống đứng đầu ngành hành pháp của chính phủ liên bang và là chỉ huy trưởng quân đội.
Tổng thống bổ nhiệm các giám đốc điều hành liên bang, các viên chức ngoại giao, quản lý, và tư pháp, và ký kết các hiệp ước quốc tế với các cường quốc nước ngoài, với sự đồng ý của Thượng viện.
Tổng thống có quyền ân xá, và triệu tập hay đình hoãn một hoặc cả hai viện của Quốc hội trong những hoàn cảnh bất thường. Kể từ khi thành lập của Hoa Kỳ, quyền lực của tổng thống và chính phủ liên bang đã phát triển đáng kể và mỗi tổng thống hiện đại, mặc dù không có quyền lập pháp ngoài việc ký hoặc phủ quyết các dự án luật quốc hội thông qua, có quyền ra lệnh chương trình nghị sự lập pháp của đảng mình và chính sách đối ngoại và đối nội của Hoa Kỳ.
Tổng thống và phó Tổng thống được bầu gián tiếp qua các cử tri đoàn bầu cho một nhiệm kỳ bốn năm, và là hai quan chức liên bang duy nhất được bầu trên toàn quốc. Qua tu chính Hiếp pháp Twenty-second Amendment, được thông qua vào năm 1951, nghiêm cấm bất cứ ai được bầu vào chức tổng thống tới nhiệm kỳ thứ ba. Nó cũng cấm một người được bầu làm tổng thống nhiều hơn một lần nếu người đó trước đây đã từng làm tổng thống, hoặc quyền tổng thống, hơn hai năm hạn của một vị tổng thống khác.
Chính quyền Liên bang, Tiểu bang và Địa phương
Chính quyền liên bang là nhân tố chủ đạo của hệ thống chính quyền Mỹ. Mọi người sống bên ngoài thủ đô đều chịu sự quản lý của ít nhất ba định chế quyền lực: chính quyền liên bang, tiểu bang, và quận (Ở một số địa phương không có cấp quận, thay vào đó là chính quyền thị trấn hoặc thành phố).
Tính đa dạng của các cấp chính quyền là hệ quả lịch sử của nước Mỹ. Chính quyền liên bang được kiến tạo từ các khu định cư (colony), hình thành cách riêng lẻ với quyền tự trị và độc lập với nhau. Trong mỗi khu định cư có các quận (hạt) và thị trấn, hình thành theo các lộ trình phát triển khác nhau hầu đáp ứng các nhu cầu hành chính khác biệt. Thay vì thiết lập một chính quyền thay thế hệ thống pháp quyền địa phương của các tiểu bang, Quốc hội Lập hiến cho phép duy trì quyền tự trị cho các tiểu bang. Khi lãnh thổ của đất nước được mở rộng, các tiểu bang mới được cấu tạo theo mô hình của các tiểu bang hiện hữu trước đó.
Ưu điểm
Hiến pháp được thiết kế để ngăn ngừa một chính quyền áp bức dân bằng các biện pháp dưới đây:
  1. phân chia quyền lực
  2. ba nhánh quyền lực lập pháp, tư pháp và hành pháp khó có cơ hội nhập thành một, như vậy quyền lực sẽ không tụ về một nhánh nào cả
  3. mỗi nhánh có yêu cầu riêng biệt và khác biệt nhau để thực hiện quyền hạn và quyền lực được chia sẽ đồng đều, không chồng chéo lên nhau
  4. từng nhánh liên can với nhau thông qua kiểm tra và cân bằng. Kiểm tra và hệ thống cân bằng cho phép cho ba nhánh hành xử độc lập với nhau và kiểm soát nhau.
Hệ thống kiểm tra và cân bằng cố tình thiết lập ba nhánh đối trọng với nhau. Mỗi nhánh chịu trách nhiệm đối với các áp lực từ cử tri khác nhau. Ví dụ, Tổng thống chịu trách nhiệm đàm phán các điều ước quốc tế nhưng phải được Thượng viện phê chuẩn. Nếu Quốc hội kiểm soát thông qua, Tổng thống mới được ký. Nhưng ngay cả khi Quốc hội thông qua hiệp ước này và Tổng thống đã ký, Tòa án Tối cao có thể bác nó với lý do là vi hiến.
Khuyết điểm
  1. Sự gia tăng nhân viên quốc hội làm phức tạp trách nhiệm của các nghị sĩ.
  2. Việc có nhiều các ủy ban quốc hội làm suy yếu sức mạnh của hệ thống lập pháp. Chủ tịch các ủy ban quốc hội ban hành các chính sách, qua quyền lực của họ, phân cấp quy trình của lập pháp.
  3. Bầu cử quá tốn kém, vì vậy những ứng cử viên nhiều tiền thường có cơ hội đắc cử hơn, dẫn đến việc những ứng cử viên có khả năng hơn phải bỏ cuộc.
  4. Quốc hội không thể bị bãi nhiệm đưa đến việc một số dự luật bị bế tắc giữa hành pháp và lập pháp, mà qua đó các nghị sĩ không chịu trách nhiệm.

Không có nhận xét nào: