Pages

Thứ Ba, 10 tháng 1, 2012

VỀ MỐI QUAN HỆ KÌNH ĐỊCH MỸ-TRUNG – Phần 2

VMỐI QUAN HỆ KÌNH ĐỊCH MỸ-TRUNG
(Phần 2)

Tài liệu tham khảo đặc biệt – Thứ ba, ngày 10/1/2012 – TTXVN (Angiê 5/1)

Không gian, nơi đầy rẫy những nghi kỵ

Theo cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, Robert Gates, không gian trên thực tế là một trong 4 lĩnh vực (cùng với an ninh mạng, vũ khí hạt nhân và phòng thủ tên lửa) có thể tạo ra nội dung cho cuộc đối thoại chiến lược Mỹ- Trung. Tuy nhiên, tạp chí “Tin Trung Hoa” đưa ra những sự việc, tuyên bố, hành động cụ thể của cả hai bên và những trao đổi song phương trong lĩnh vực hợp tác không gian để chứng minh rằng giữa ý muốn và thực tế còn một khoảng cách rất xa.

Điều bình thường nhất mà người ta có thể nói, theo “Tin Trung Hoa”, là về phía Mỹ cũng như Trung Quốc, không bên nào có hứng thu hợp tác trong lĩnh vực này. Giới quân sự Trung Quốc, những người đang kiểm soát các dự án không gian, dường như không sẵn sàng tỏ ra minh bạch, điều vốn cần thiết để hợp tác có hiệu quả. Đồng thời, họ tiếp tục than phiền về mối nghi ngại của Mỹ và lệnh cấm vận đối với công nghệ nhạy cảm do Lầu Năm Góc áp đặt. Còn ở Mỹ, các nhóm có tác động về an ninh vốn rất nghi ngại đối với Trung Quốc, lại đang có ảnh hưởng lớn hơn bao giờ hết.


Mùa Thu năm 2010, Chủ tịch NASA, Charles Bolden, đã sang thăm Trung Quốc để thăm dò khả năng hợp tác song phương, song Quốc hội Mỹ kiểm soát ông rất chặt. Hai nghị sĩ đã viết thư cảnh báo ông không được thực hiện bất kỳ trao đổi nhạy cảm nào và nói cho ông biết những nghi ngờ về ý định thực của Trung Quốc trong lĩnh vực này.

Tiến b đu tiên của Trung Quc trong lĩnh vực không gian và yếu kém trong hp tác Mỹ-Trung

Thực tế là hai nước đã bước vào một cuộc cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực thám hiểm không gian cũng như sử dụng không gian vào mục đích thương mại và quân sự. Đúng là Mỹ đi trước nhiều, song vấn đề là Trung Quốc đạt được tiến bộ nhanh, ít nhất là theo ba hướng đã được xác định được nói đến nhiều trong báo chí của nước này.

Thứ nhất là trạm không gian dự kiến sẽ được triển khai trong không gian vào năm 2015 và một chương trình huấn luyện các nhà du hành đã được khởi động phục vụ cho kế hoạch này. Môđun Thiên Cung đã được phóng lên quỹ đạo và tàu vũ trụ Thần Châu đã lắp ghép được với môđun này. Tuy được phát triển theo cách riêng, song chương trình không gian cua Trung Quốc cũng dự kiến khả năng cho tàu của mình lắp ghép với trạm không gian quốc tế.

Thứ hai là thám hiểm Mặt Trăng. Giai đoạn đầu đã hoàn thành vào tháng 10/2010 với việc phóng lên quỹ đạo vệ tinh Hằng Nga-2. So với vệ tinh Hằng Nga-1, Hằng Nga-2 bay ở quỹ đạo thấp hơn hai lần (cách Trái Đất 100 km so với 200 km) và được lắp camera có độ chính xác cao. Trung Quốc dự kiến đưa một tàu thám hiểm có người lái lên Mặt Trăng để thu thập mẫu vật (trong đó có hélium và titanium) trong giai đoạn 2012-2013. Nhưng ít nhất phải đến năm 2020 Trung Quốc mới có thể đưa người lên Mặt Trăng.

Lĩnh vực thứ ba nhạy cảm nhất về mặt chiến lược nhằm mục đích giúp Trung Quốc thoát khỏi sự lệ thuộc vào hệ thống định vị toàn cầu của Mỹ, với việc thiết lập một mạng lưới GPS của riêng mình. Theo báo chí nước này, hệ thống Bắc Đẩu sẽ bắt đầu vận hành vào năm 2012 trên phần châu Á và phải đến năm 2020 mới phủ sóng được toàn cầu.

Hiện nay, tất cả hệ thống định vị và dẫn đường của Trung Quốc vẫn phụ thuộc vào hệ thống GPS của Mỹ và Lầu Năm Góc có thể gây nhiễu nếu xảy ra căng thẳng với Trung Quốc. Như vậy không có gì ngạc nhiên nếu giới quân sự Trung Quốc coi mảng này là vấn đề cần được ưu tiên. Cũng chính giới quân sự là những người thúc đẩy việc chế tạo vũ khí không gian có khả năng loại bỏ hệ thống GPS của Mỹ trong trường hợp xảy ra xung đột với nước này.

Hợp tác không gian giữa Mỹ và Trung Quốc như vậy có ít cơ hội để phát triển, trong khi căng thẳng diễn ra thường xuyên trong bối cảnh cạnh tranh chung để kiểm soát châu Á, nơi gần đây trở nên căng thẳng xung quanh vấn đề Bắc Triều Tiên, tự do hàng hải ở biển Nam Trung Hoa (Biển Đông) và các vụ bán vũ khí của Mỹ cho Đài Loan. Rất có thể cũng sẽ diễn ra một cuộc chạy đua vũ trang vào không gian, với những dấu hiệu đầu tiên rất rõ nét xuất hiện trong các tuyên bố cũng như hành động và việc làm của cả bên này lẫn bên kia.

Chạy đua vũ trang trong không gian và mối lo ngại của Mỹ

Người ta còn nhớ sau vụ Trung Quốc dùng tên lửa bắn hạ một trong nhừng vệ tinh khí tượng cũ của mình vào tháng 1/2007, Mỹ tỏ ra hết sức lo ngại trước tiến bộ của Trung Quốc, nhưng lại quên nói rõ rằng công nghệ được quân đội Trung Quốc sử dụng là loại cũ và bản thân họ cũng coi không gian như một bãi tập quân sự để từ đó loại trừ những kẻ đột nhập một khi chúng bị Mỹ coi là “mối đe dọa đối với an ninh” của mình.

Đúng một năm sau, Lầu Năm Góc đưa ra câu trả lời của mình. Ngày 21/2/2008, một tên lửa SM-3 cải tiến được phóng đi từ một tàu chiến của Hải quân Mỹ, ngay phát đầu tiên phá hủy một vệ tinh gián điệp của Mỹ đã mất kiểm soát. Vào thời điểm đó, vụ phóng này đã khiến Nga và Trung Quốc phán đối. Bầu không khí lại nóng lên thêm khi vào tháng 10/2009, tướng Hứa Kỳ Lượng, Tham mưu trưởng không quân Trung Quốc, giải thích cuộc chạy đua vũ trang vào không gian là “không thể tránh khỏi về phương diện lịch sử”, mặc dù ngay sau đó Bộ Ngoại giao đã cải chính lời tuyên bố của viên tướng này.

Tranh cãi lại nổ ra ngày 24/4/2010 khi một bài báo của tờ “China Daily” đặt câu hỏi về việc phóng tàu con thoi không người lái X-37B của Mỹ. Theo Zhao Xiaozhu, nhà nghiên cứu thuộc Học viện khoa học quân sự của quân đội Trung Quốc, con tàu này có thể trở thành một bàn đạp quân sự trong không gian. Sau đó ít lâu, Zhai Dequan, Phó Tổng thư ký Hiệp hội giải trừ quân bị của Trung Quốc, lại kích động thêm khi nói rằng việc phát triển tàu con thoi không người lái cho, thấy “lời hứa của Mỹ giảm tốc độ cuộc chạy đua vũ trang vào không gian là không thành thực”.

Trong khi Mỹ đi trước nhiều về mặt công nghệ và có kinh nghiệm trên thế giới không ai bằng về lĩnh vực không gian, song nước này vẫn luôn lo ngại trước những tiến bộ của Trung Quốc. Mối lo ngại đó nảy sinh từ giữa những năm 1990 khi có tin đồn về một loại vũ khí lade của Trung Quốc. Năm 2006, giới tình báo Mỹ khẳng định một trong số các vệ tinh của họ đã trở thành mục tiêu của vũ khí loại này.

Tháng 9/2008, vào lúc Trung Quốc phóng tàu vũ trụ Thần Châu 7, chương trình đầu tiên huấn luyện nhà du hành bước ra không gian và vận hành một môđun Trung Quốc từ mặt đất, các cơ quan của Mỹ đã soạn thảo các luận thuyết về rủi ro do hoạt động của vệ tinh Trung Quốc gây ra – cũng có thể được dùng làm bàn đạp chống vệ tinh – ở khoảng cách gần với trạm không gian quốc tế.

Tháng 11/2009, trang mạng IMINT lại khuấy động vấn đề này khi tung ra một số hình ảnh về một căn cứ quân sự của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc được khẳng định là chứa vũ khí lade. Trung Quốc đã bác bỏ thông tin này. Cuối cùng, ngày 11/1/2011, một chương trình của đài BBC khẳng định quân đội Trung Quốc mới đây đã thử nghiệm một loại vũ khí chống vệ tinh “có khả năng đánh vào tử huyệt của Lầu Năm Góc trong không gian”, nhưng không đưa ra bằng chứng.

Bớt cường điệu và xem xét kỹ càng

Các nhà khoa học trên thế giới từ 60 năm nay định chế tạo một loại vũ khí lade đáng tin cậy có khả năng (ngoài phòng thí nghiệm) giải quyết được mâu thuẫn giữa sức mạnh, độ cứng hay khả năng chống đỡ các cuộc tấn công, tính linh hoạt và dễ sử dụng. Tất cả đều cho thấy Mỹ có lợi thế trong cuộc chạy đua này. Trong một thời gian ngắn nữa, Hải quân Mỹ thực ra có thể trang bị cho các tàu chiến của mình hệ thống phòng thủ tên lửa bằng lade. Không một thông tin tình báo đáng tin cậy nào tìm được trong các loại tài liệu công khai chứng minh được Trung Quốc đã đạt được trình độ phát triển này.

Cũng như vậy, cần tương đối hóa những tiến bộ của Trung Quốc trong lĩnh vực công nghệ không gian. Cho dù những tiến bộ đó là nhanh và gây ấn tượng – cụ thể là trong lĩnh vực điều khiển từ xa và tự động hóa có thể nhận thấy trong sứ mệnh của tàu Thần Châu 7 – song cũng còn lâu mới đuổi kịp NASA. Tên lửa đẩy thuộc thế hệ mới nhất của Trung Quốc, Trường Chinh 5, phải đến năm 2017 mới có thể được đưa vào sử dụng và cũng chỉ mang được 25 tấn so với 120 tấn trọng tải hữu ích của tên lửa Saturne 5 của Mỹ dùng để phóng tàu con thoi Apollo.

Không ai phủ nhận những tiến bộ nhanh chóng của Trung Quốc với độ tin cậy của các tên lửa đẩy, đã giúp nước này có được vị trí đáng kể trên thị trường phóng vệ tinh (đứng thứ ba sau Nga và Mỹ, và bỏ xa Liên minh châu Âu). Song cũng cần xem xét mọi khía cạnh của hình ảnh chung về cuộc chinh phục vũ trụ, hiện nay vẫn do Mỹ và Nga chi phối. Theo các nguồn tin đáng tin cậy nhất, Nga đã bán thiết kế khoang đổ bộ không gian của mình cho Trung Quốc.

Từ năm 1999, Trung Quốc chỉ huấn luyện 6 nhà du hành và họ ở 9 ngày trên quỹ đạo. Để so sánh, cần biết rằng trong 10 năm đầu (1960-1969) thực hiện chương trình tàu vũ trụ có người lái của mình, Mỹ và Nga đã đưa lên quỹ đạo 44 và 24 nhà du hành, với tổng số thời gian ở lại trong không gian 96 và 42 ngày, trong khi chương trình của Mỹ kết thúc bằng hai chuyến thám hiểm trên bề mặt Mặt Trăng.

Cuối cùng, trong 10 năm chuẩn bị chương trình các chuyến bay thám hiểm Mật Trăng, Mỹ đã đưa lên quỹ đạo số vệ tinh lớn gấp 5 lần của Trung Quốc trong 40 năm thực hiện chương trình thám hiểm không gian của mình. Đấy là chưa nói đến các chuyến bay thám hiểm sao Kim và sao Hỏa với một chiếc xe điều khiển từ xa hạ cánh xuống sao Hỏa vào năm 2004 và 2008.

Người ta bắt đầu hy vọng nhân loại đang bước vào không gian sẽ thành công trong việc vượt qua những ý đồ dân tộc chủ nghĩa và nghi kỵ chiến lược có thể dẫn đến sự lãng phí và trùng lặp để chinh phục vũ trụ được dễ dàng hơn. Thái độ khó chịu hiện nay của các bên cho thấy không có gì là chắc chắn cả, cho dù giữa Mỹ và Trung Quốc, Nga, Liên minh châu Âu và những nước đến sau, như Ấn Độ và Braxin, có những lĩnh vực mà đối thoại và hợp tác có thể thực hiện được ngay lập tức, như trao đổi thông tin về các mảnh vụn vũ trụ, điều kiện thời tiết, môi trường và hàng hải, trong khi chờ đợi một cuộc đối thoại chiến lược thực sự về việc sử dụng không gian và thông qua một “Bộ quy tắc úng xử”.

Khi Trung Quốc tiếp tục mua trái phiếu Mỹ…

Tạp chí “Phát thanh” đánh giá việc nào vẫn vào việc nấy, còn các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn tỏ ra thực dụng và thận trọng. Dự báo một cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới mới, họ tiếp tục mua vào trái phiếu của Chính phủ Mỹ mặc cho ở trong nước các giới chức có liên quan lên tiếng phê phán và cảnh báo.

Ngày 8/8, Tân Hoa Xã một lần nữa phê phán Chính phủ Mỹ vung tay quá trán đối với các khoản vay nước ngoài, đồng thời kêu gọi quốc tế kiểm soát đồng USD và lập ra một đồng tiền dự trữ mới để tránh việc một nước gây ra thảm họa. Lời phê phán trên được đưa ra ngay sau khi Ngoại trưởng Trung Quốc, Dương Khiết Trì, kêu gọi Oasinhtơn áp dụng chính sách tài chính có trách nhiệm hơn và bảo đảm an toàn cho tài sản của nước ngoài.

Nhưng tạp chí “Phát thanh” cho biết không phải vì thế mà tháng 6/2011, Ngân hàng trung ương Trung Quốc không mua 26 tỷ USD trái phiếu kho bạc do Mỹ phát hành, đưa tổng số tiền đầu tư của Trung Quốc vào món nợ của Mỹ lên tới 1.200 tỷ USD, tăng 30% chỉ trong vòng 9 tháng. Theo con số của tờ “China Đaily” ngày 2/8/2011, số tiền đó tương đương với hơn 1/3 dự trữ ngoại,tệ, được đánh giá vào khoảng 3.200 tỷ USD vảo thời điểm tháng 6/2011.

Với những người đang đặt câu hỏi về lý do dẫn đến những điều trái ngược trên, báo chí chính thức của Trung Quốc mới đây đưa ra một số lời giải đáp với lý lẽ cho thấy nhiều điều về cách đánh giá của nước này đối với rủi ro có thể xảy ra cũng như cách mà Bắc Kinh nhìn nhận Mỹ. Trong một bài xã luận đăng trên mạng ngày 19/8, tờ “Nhân dân nhật báo” trước hết giải thích rằng khi xuất hiện nguy cơ tài chính nghiêm trọng mới, các nhà đầu tư coi trọng độ an toàn của cổ phiếu hơn là lợi nhuận.

Nói như vậy, song tạp chí “Phát thanh” cho biết tựu trung lại, cơ quan ngôn luận trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc qua bài báo đó muốn chỉ ra rằng sau khi đã cân nhắc kỹ càng, trái phiếu kho bạc Mỹ vẫn là nơi cất giữ tiền chắc chấn nhất. Vàng có thể có bảo đảm, nhưng lượng vàng sẵn có trên thị trường không đủ để hấp thụ hết số vốn cần được cất giữ. Người ta cũng có thể thiết lập kho dự trữ tài sản nhạy cảm, nhưng thị trường đã được tài chính hóa và không có được sự đảm bảo nào. Đấy là chưa nói đến việc tích trữ sẽ gây ra tăng giá khiến xu thế lạm phát ở Trung Quốc có thể sẽ trầm trọng hơn.

Tờ “Nhân dân nhật báo” nói thêm rằng trên thực tế, nếu một cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra, khả năng lớn nhất có thể là toàn bộ số 16.000- 17.000 tỷ USD vốn tích lũy đang lưu thông trên thế giới sẽ phải tìm nơi ẩn náu thông qua việc mua lại các món nợ ít nguy hiểm nhất. Nhưng cả đồng yên Nhật lẫn đồng euro không có được bảo đảm chắc chắn bằng đồng USD vì sức mạnh của đồng tiền này dựa trên sự ổn định của hệ thống chính trị, chất lượng của nền giáo dục cũng như sức sống của sự sáng tạo công nghệ.

Nếu đem so sánh với các chuẩn mực này, đồng ngoại tệ Mỹ dĩ nhiên vẫn là chắc chắn nhất. Đúng là đồng USD đang mất giá, song không phải vì thể mà bất cứ đồng tiền nào khác cũng có thể so sánh được với đồng tiền này. Do đó, tình hình tài chính thế giới càng không chắc chắn bao nhiêu, món nợ của Mỹ và đầu tư vào Mỹ càng được coi là những cứu cánh an toàn bấy nhiêu. Điều đó giải thích tại sao Trung Quốc vẫn tăng lượng mua vào trái phiếu kho bạc Mỹ.

Những lập luận trên minh chứng cho việc Trung Quốc có xu hướng quay trở về với đồng USD mặc dù nhiều người cho xu hướng đó là gây bất ngờ trong lúc những yếu kém tài chính của Mỹ được đề cập đến ở mọi nơi trên thế giới. Đối với Trung Quốc, rủi ro lớn có thể nảy sinh do nguồn dự trữ ngoại hối đáng kể có thể bị mất giá. Để khắc phục tình trạng đó, một số giải pháp được đưa ra.

Trước hết, Trung Quốc sẽ sắp xếp lại cơ cấu công nghiệp vẫn đang trong tình trạng lộn xộn và là nguyên nhân gây lãng phí lớn đồng thời dẫn đến tình trạng cơ cấu phát triển chủ yếu xoay quanh xuất khẩu, với việc kiểm soát quá chặt chẽ tỷ giá, thặng dư thương mại và tích lũy dự trữ. Đâu tháng 8/2011, Trung Quốc đã nói đến sự cần thiết phải cải cách cung cách quản lý tài chính trong nước. Nhận thấy mức độ đầu tư ra nước ngoài là chưa đủ để hấp thụ số thặng dư vốn, Trung Quốc có thể giảm rủi ro bằng cách “mua lại” dự trữ ngoại hối để tái đầu tư vào trong nước. Cuối cùng, dư luận ở Trung Quốc yêu cầu trong thời gian tới cần tính tới tính chuyển đổi của đồng nhân dân tệ, thiết lập một hệ thống bảo đảm quốc tế dưới dạng trái phiếu có thể bán lại sau khi số tiền Mỹ vay đến hạn phải trả.

Theo tạp chí “Phát thanh”, mục tiêu của Trung Quốc chắc chắn là để trấn an các nhà cho vay tiền và đặc biệt là bảo đảm an toàn cho số tiền mà Bắc Kinh đầu tư vào món nợ của Mỹ. Nhưng chắc chắn Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ khó có thể chấp nhận điều kiện này. Còn về các đề nghị từ một năm nay liên quan đến việc đưa đồng nhân dân tệ vào thành phần Quyền rút vốn đặc biệt của Quỹ tiền tệ quốc tế nhằm tạo ra một chuẩn mực

tiền tệ khác ngoài đồng USD, ý kiến này có thể vấp phải sự nghi ngại về chính trị của phe bảo thủ vốn lo ngại về hậu quả chính trị và xã hội ở trong nước nếu đồng nhân dân tệ được định giá lại quá nhanh.

Nên buông hay nên giữ Đài Loan?

Mối quan hệ mỏng manh giữa Đài Loan và Mỹ cộng với thế yếu về chính trị và chiến lược của hòn đảo này với quy chế không chắc chắn, được khẳng định trong một số phân tích mới đây của Mỹ. Theo đó, Đài Loan trước đây có ý nghĩa sống còn trong chiến lược của Mỹ, nhưng nay không còn quan trọng nữa.

Trong bài phân tích dưới đây, tạp chí “Trung Hoa ngày nay” phác thảo những tiến triển trong mối quan hệ tay ba Mỹ-Trung Quốc-Đài Loan, đặc biệt là những hậu quả nảy sinh từ sự thay đổi cán cân lực lượng ở eo biến Đài Loan đối với quyết tâm ủng hộ hòn đảo của Mỹ về phương diện quân sự. Qua đó, “Trung Hoa ngày nay” cũng cho thấy mối quan hệ rất chặt chẽ giữa Mỹ và Đài Loan trước đây nay đã suy yếu hơn, đồng thời khẳng định khả năng xoay xở của Đài Loan bị giảm sút trong cuộc chơi tay ba với Mỹ và Trung Quốc, và hòn đảo ngày càng bị cô lập mặc dù một bộ phận trí thức Mỹ vẫn luôn muốn “kiềm chế” Trung Quốc.

Trong những tiền tố của cuộc bầu cử tổng thống và quá trình cải thiện tận gốc rễ mối quan hệ giữa hai bờ eo biển – có lợi cho Bắc Kinh, Oasinhtơn và Đài Bắc – ẩn giấu 3 yếu tố cốt tử đổi với tương lai của Đài Loan. Đó là ảnh hưởng kinh tế, quân sự và ngoại giao ngày càng tăng của Trung Quốc đối với Đài Loan; sự mong manh về phương diện nội tại của Đài Loan; và sự xa cách của Mỹ cũng như sự suy giảm hỗ trợ của Oasinhtơn mà Nhà Trắng không còn quan tâm.

Phân tích ba yếu tố này cho thấy những người tin rằng Đài Loan duy trì được quyền tự do hành động bằng một nguyên trạng mơ hồ và với hình hài không rõ ràng, đã nhầm. Trái lại, Đài Loan đang ngày càng dấn sâu vào quỹ đạo của Trung Quốc, đến mức hiện nay việc quay trở lại dường như là không tưởng.

Sức mạnh của Trung Quốc v sự yếu kém của Đài Loan

Mất cân bằng lực lượng quân sự giữa hai bờ eo biển có lợi cho Trung Quốc là điều đáng lo ngại về mặt tâm lý và tác động tới khả năng xoay xở của Đài Loan.

Kho vũ khí hùng hậu của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc ở vùng eo biển tăng dần hàng năm cả về lượng lẫn về chất, trong khi Đài Loan không bảo đảm được mục tiêu duy trì ngân sách quốc phòng ở mức 3% Tổng sản phẩm quốc nội, và các phi vụ bán vũ khí của Mỹ bị chậm lại, theo phía Mỹ là do thời hạn mà Bộ Quốc phòng Đài Loan cần có để có tiền. Cũng rất có khả năng các thời hạn đó xuất phát từ mối lo ngại làm phật ý Bắc Kinh trong khi ông Robert Gates, khi còn là Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, nói ông rất tâm đắc với việc nối lại quan hệ quân sự Mỹ-Trung mà Trung Quốc coi các vụ bán vũ khí cho Đài Loan là một điều kiện.

Lầu Năm Góc rất muốn can dự vào vùng eo biển Đài Loan, song các nhà lãnh đạo chính trị Mỹ ngày càng ít sẵn sàng hơn. Đặc biệt bởi lẽ Trung Quốc đã phát triển đáng kể năng lực quân sự khiến chi phí cho một cuộc can thiệp cũng tăng lên đáng kể.

Cách đây không lâu, hai nền kinh tế ở hai bờ eo biển Đài Loan tương đối ngang bằng nhau về khối lượng. Năm 1995, nền kinh tế Đài Loan được đánh giá bằng 1/3 của Trung Quốc. Hiện nay khoảng cách chênh lệch là 1/15. Tệ hơn nữa là sự phụ thuộc về kinh tế của Đài Loan vào Trung Quốc đại lục ngày càng nặng nề. Hơn một triệu người Đài Loan có quan hệ làm ăn với Trung Quốc và Đại lục là nơi tiếp nhận 40% hàng hóa xuất khẩu của Đài Loan. Trong khi đó Đài Bắc thừa nhận biên độ xoay xở và những bước tiến của mình trên trường quốc tế hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn của Trung Quốc.

Sự h trợ của Mỹ bị xói mòn

Lập trường công khai của chính quyền Obama đối với Đài Loan không che giấu được thái độ lưỡng lự ngày càng tăng của Nhà Trắng, đặc biệt khi mỗi một sáng kiến ủng hộ Đài Bắc đều có thể làm phức tạp thêm mối quan hệ với Bắc Kinh.

Hiện nay, lập trường chính thức của Oasinhtơn là luôn thuyết phục Bắc Kinh không sử dụng vũ lực, đồng thời chủ trương giải quyết bằng biện pháp hòa bình để thoát khỏi ngõ cụt. Chiến lược này vẫn không thay đổi từ khi quan hệ chính thức bị cắt đứt vào năm 1971.

Nhưng Đạo luật quan hệ với Đài Loan (TRA – năm 1979), do Henry Kissinger và Zbigniew Brezinski đề xuất, một thứ trách nhiệm pháp lý nội bộ buộc Nhà Trắng không được khoanh tay đứng nhìn trong trường hợp Trung Quốc xâm lược Đài Loan bằng quân sự, vào thời đó được ngầm hiểu là một ý đồ chiến lược nhưng tính xác đáng đã yếu đi nhiều vì ba lý do. Thứ nhất, một số nhân vật cả Dân chủ lẫn Cộng hòa nghĩ rằng TRA và sự răn đe quân sự chống lại Trung Quốc sẽ cho phép có thêm thời gian cho đến lúc tình thế thuận lợi cho Đài Loan xuất hiện giúp giải quyết bế tắc có lợi cho hòn đảo này. Thứ hai, một số nhân vật khác trong Quốc hội và chính quyền – đặc biệt dưới thời Tổng thống Ronald Reagan – nghĩ rằng sự hồ trợ hoàn toàn đối với Đài Loan có thể là một phương tiện để tạo điều kiện cho ảnh hưởng của Mỹ ở Châu Á-Thái Bình Dương và buộc Trung Quốc phải hợp tác chặt chẽ hơn với Oasinhtơn, đồng thời phải chấp nhận nguyên trạng ở vùng eo biển. Tóm lại, họ nhìn nhận mối quan hệ với Đài Loan như một phương tiện để kiểm soát hướng phát triển sức mạnh của Trung Quốc trong vùng cũng như trên thế giới. Thứ ba, các nhân vật bảo thủ nhất trong số các thượng nghị sĩ vẫn quyết tâm chống lại việc công nhận Trung Quốc và Đảng cộng sản Trung Quốc, mà họ vốn không tin tưởng.

Tóm lại, việc tăng cường mối quan hệ với Đài Loan vào thời điểm TRA phụ thuộc nhiều vào nhóm vận động hành lang ở Quốc hội và một số chính khách nắm quyền, với mục đích không phải là giải quyết vấn đề Đài Loan, mà để đáp ứng lợi ích trực tiếp của Mỹ. Sự hỗ trợ của Quốc hội và báo chí trở nên mạnh mẽ hơn sau khi Đài Loan chấp nhận theo chế độ dân chủ. Đồng thời cuộc đàn áp tại quảng trường Thiên An Môn và sự sụp đổ của khối Đông Âu càng làm cho Mỹ rời xa Trung Quốc hơn nữa.

Năm 1995 Quốc hội Mỹ gần như hoàn toàn nhất trí gây áp lực với Tổng thống Bill Clinton để cấp thị thực cho Tổng thống Lý Đăng Huy. Nhưng khi Bắc Kinh đe dọa về quân sự bằng cách bắn tên lửa vào vùng biền ngoài khơi bờ biển Đài Loan thì Chính quyền Mỹ coi mối đe dọa đó là đến mức nguy hiểm và quyết định điều 2 tàu sân bay vào vùng eo biển Đài Loan để răn đe các hành động xâm lược của Trung Quốc. Trái lại, sự can dự của Quốc hội Mỹ đối với Đài Loan rõ ràng lại hờ hững hơn trong thời kỳ TRA trước đó 15 năm.

Trong nhiệm kỳ tổng thống của Bill Clinton, đúng là phái Cộng hòa đã lên tiếng ủng hộ Đài Loan và phê phán nỗ lực của Chính quyền Dân chủ làm dịu thái độ của Trung Quốc, song dường như đó chỉ là lập trường mang tính chất đảng phái nhằm làm mất uy tín của tổng thống hơn là một sự can dự chân thành đối với Đài Loan.

Đoạn tuyệt với Trn Thủy Bin

Chính quyền Bush bắt đầu nhiệm kỳ với ý định rõ ràng là tăng cường hỗ trợ Đài Loan trong khuôn khổ chiến lược tăng cường liên minh và các mạng lưới của mình ở châu Á-Thái Bình Dương, với mục đích uốn các chính sách của Trung Quốc đi theo hướng mà Mỹ mong muốn. Chính sách đó sụp đổ khi Tổng thống Đài Loan lúc đó, Trần Thủy Biển, lợi dụng sự hỗ trợ của Mỹ để đưa ra sáng kiến theo hướng tiến tới độc lập khiến Bắc Kinh phản ứng quyết liệt về phương diện chính trị, đồng thời đe dọa về mặt quân sự.

Mỹ đột ngột cắt đứt mọi tiếp xúc với Trần Thủy Biển và công khai đưa ra các bất đồng về đánh giá giữa Nhà Trắng và Đài Băc. Tại Quốc hội, có rất ít nghị sĩ dám ngăn cản áp lực của Tổng thống Bush nhằm buộc Trần Thủy Biển phải chấm dứt các hành động khiêu khích và càng không đến Đài Loan để bày tỏ sự ủng hộ của họ đối với nhà lãnh đạo theo khuynh hướng độc lập này cũng như chính sách của ông ta.

Phân tích các chiến lược của Tổng thống Obama cho thấy điểm trái ngược với những tính toán ban đầu của Chính quyền Bush và sự ủng hộ của Mỹ đối với Đài Loan suy giảm đến mức nào. về phương diện chính thức, vấn đề vẫn luôn là thuyết phục Trung Quốc không xâm lược Đài Loan. Nhưng sự thay đổi cán cân lực lượng ở vùng eo biển này cũng giải thích thái đọ lưỡng lự mới của Nhà Trắng ngày càng tránh việc đưa nước Mỹ vào một cuộc xung đột với Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Đó chính là lý do giải thích tại sao Oasinhtơn cho rằng chiến lược của Mã Anh Cửu xoay quanh việc xích lại gần với Trung Quốc là một sự tiến triển tích cực.

Những tiếng nói trước đây chủ trương tăng cường quan hệ với Đài Loan nhiều hơn với Trung Quốc nhằm “tranh thủ thời gian” trong khi chờ thời thế thuận lợi hơn cho hòn đảo, đã không còn xuất hiện. Những tình cảm chống cộng trước đây vốn là một động lực mạnh trong Quốc hội để ủng hộ Đài Loan, nay không còn đáng kể. Và trái ngược với những năm đầu tiên của Chính quyền Bush, chính quyền hiện nay đã bỏ hẳn ý định sử dụng vấn đề Đài Loan để tạo ra ở châu Á-Thái Bình Dương một động lực thuận lợi cho lợi ích của hòn đảo và có khả năng hướng chính sách của Trung Quốc theo của mong muốn Nhà Trắng.

Tính không ổn định trong các chiến lược ngoại giao và an ninh của Chính quyền Obama là sự thay đổi quan trọng nhất trong các động lực vùng từ nhiều năm nay. Tuy Oasinhtơn gia tăng can dự vào Châu Á-Thái Bình Dương – từ Ấn Độ đến các hòn đảo trong Thái Bình Dương – song những tuyên bố chính đánh dấu sự trở lại của Mỹ trong vùng không còn nói đến việc tăng cường mối quan hệ với Đài Loan. Hơn thế nữa, mọi thứ trong thái độ của Chính quyền Đài Bắc khẳng định và củng cố thêm lập trường của Mỹ. Thái độ “nhún nhường” cửa Đài Bắc trái ngược với sự ủng hộ công khai trong thời gian gần đây của Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ và ASEAN đối với Mỹ.

Tại Hạ viện, phái cộng hòa không phải là không tìm được các chiến lược mang tính đảng phái thể hiện sự cần thiết phải ủng hộ Đài Loan vì chính sách đối nội, song vấn đề ở đây là các chuyến thăm hòn đảo này của họ ít dần đi và những người có đến đây đôi khi lại có ý kiến trái ngược với lợi ích của Đài Bắc sau khi trở về. Rạn nứt trong nhóm vận động hành lang của Đài Loan đã dẫn đến tình trạng rối rắm và làm suy giảm ảnh hưởng của họ.

Cần thực tế hơn trong đánh giá tương lai của Đài Loan và khả năng của Đài Bắc từ bỏ việc xích lại gần Trung Quốc. Chính sách thực dụng đó là cần thiết để giới tinh hoa và báo chí, ở Mỹ cũng như ở Đài Loan, ý thức được hậu quả của một chiến lược ngày càng đẩy Đài Loan vào quỹ đạo của Trung Quốc.

Đặc biệt, các chính khách và các trung tâm tác động khác, kể cả những người chống lại việc Đài Loan ngày càng không nắm được trong tay vận mệnh của mình, có thể phải thừa nhận rằng khi ủng hộ những lựa chọn của Chính phủ Đài Loan hiện được Oasinhtơn và Bắc Kinh ủng hộ, họ trở thành đồng lõa với một sự chuyển dịch cho phép Bắc Kinh tác động đến những lựa chọn trong tương lai của hòn đảo.

Có thể Nhật Bản là nước tỏ ra lo ngại nhất khi thấy Đài Loan tiếp tục xích lại gần Trung Quốc. Trong bối cảnh đó, Nhà Trắng sẽ phải nồ lực hơn nữa để trấn an đồng minh Nhật Bản cũng như các đồng minh khác ở châu Á-Thái Bình Dương về quyết tâm của Mỹ cân bằng ảnh hưởng chiến lược của Trung Quốc trong vùng. Một hậu quả khác của tiến triển tình hình hiện nay là tiến trình xích lại gần nhau giữa hai bờ eo biển Đài Loan sẽ làm

giảm thiểu tầm quan trọng của đối trọng Mỹ.

Vấn đề còn lại là giả thiết thống nhất Trung Quốc bằng vũ lực với một cuộc tấn công của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc hay phong tỏa hòn đảo, vốn là cơ sở cho những phân tích thiên về mối lo ngại của Mỹ, ít có khả năng xảy ra. Bởi lẽ tình hình nhìn chung đúng la như vạy, song được phân tích với một số ẩn số lớn tác động đến cả ba tác nhân của vấn đề này.

Chắc chắn Bắc Kinh không từ bỏ yêu sách chính trị đối với Đài Loan từ năm 1949 cũng như phương án quân sự được nói rõ hơn trong Luật chống ly khai (năm 2005). Nhưng hiện nay không một chiến lược gia nào có khả năng nói chính xác mà không sợ rủi ro nhầm lẫn, hậu quả – kêt cả sự sống còn của Đảng cộng sản Trung Quốc – của một cuộc xung đột được phát động ở eo biển Đài Loan, trong bổi cảnh cả Oasinhtơn lẫn Bắc Kinh, do bị vướng vào biện chứng bó buộc về răn đe hạt nhân, đều không nghiêm túc nghĩ đến một cuộc đối đầu trực tiếp, là như thế nào.

Còn ở Đài Loan, quá khứ gần đây cho thấy cử tri gần như hoàn toàn nhất trí chống lại việc thoát khỏi tình trạng mập mờ hiện nay về một nền độc lập trên thực tể, như thế nào, mặc dù những thuộc tính của nền độc lập đó bị sứt mẻ nhiều do áp lực của Trung Quốc.

Cuối cùng, đúng là không thể phủ nhận tính xác thực và tính hiệu quả của những hành động gián tiếp của Trung Quốc – lại gặp thuận lợi nhờ chính sách của Mã Anh Cửu – nhằm đưa Đài Loan vào quỹ đạo của mình, song cũng không thể không nói đến sự đối nghịch về chế độ chính trị ở hai bờ eo biển. Đối với Đài Bắc, đây là một trở ngại có tính phản kháng dẫn đến những hạn chế lớn trong chiến lược của Bắc Kinh, kể cả trong bối cảnh Đài Loan phụ thuộc hoàn toàn về mặt kinh tế. Trở ngại đó hiện nay thể hiện ở việc Mã Anh Cửu nhiều lần từ chối tiến hành đối thoại chính trị với Bắc Kinh.

Tương lai sẽ cho thấy việc tăng cường mối quan hệ kinh tế và thương mại – mà Mã Anh Cửu sẽ tìm cách hãm lại – có đến mức buộc Đài Loan phải bước qua “giới hạn đỏ” để tiến tới thương lượng chính trị hay không. Trong trường hợp Đài Bắc từ chối, tất cả các phương án mà Bắc kinh dự kiến ngoài tính kiên nhẫn mà êkíp lãnh đạo hiện nay đã cho thấy, có thể sẽ chứa đựng không những nguy cơ phá hỏng những tiến bộ trong mối quan hệ từ năm 2008 đến nay mà còn dẫn đến những nguy cơ nghiêm trọng về mặt quân sự.

(còn tiếp)

Không có nhận xét nào: