Pages

Thứ Hai, 23 tháng 4, 2012

Hiến pháp Việt Nam phải ‘bảo vệ dân quyền’


LS. Nguyễn Minh Tuấn

Gửi cho BBC từ ĐH Saarland, CHLB Đức

Chiều ngày 17/4, người phát ngôn của Ban chỉ đạo tổng kết thi hành Hiến pháp 1992, Thứ trưởng Bộ Tư Pháp Hoàng Thế Liên đã trả lời các câu hỏi của báo giới liên quan đến báo cáo tổng kết thi hành Hiến pháp 1992 của Chính phủ.
Nội dung các câu hỏi và trả lời về Bản báo cáo này xoay quanh các vấn đề như có nên đa dạng hóa các hình thức sở hữu đất đai không, quyền cơ bản của công dân nên được sửa đổi, bổ sung theo hướng nào, tổ chức quyền lực nên được sửa đổi ra sao để vừa chống nguy cơ lạm quyền vừa bảo vệ dân quyền.


Liên quan đến những câu trả lời của Thứ trưởng Hoàng Thế Liên, tôi thấy còn một số vấn đề chưa thực sự sáng tỏ, cần tiếp tục trao đổi để làm rõ như sau.
Trước hết, về đa dạng hóa các hình thức sở hữu đất đai – một đòi hỏi từ thực tế cuộc sống, trả lời câu hỏi liên quan đến vấn đề sở hữu đất đai, ông Hoàng Thế Liên nhận định rằng hiện có ba quan điểm về vấn đề này:
“Phần lớn vẫn kiến nghị giữ nguyên chế định sở hữu toàn dân về đất đai, chú trọng hơn nữa quá trình thể chế hóa chế định này vào luật và các nghị định. Ý kiến thứ hai cho rằng quy định “sở hữu toàn dân” chưa rõ về mặt chủ sở hữu. Do vậy kiến nghị quy định rõ trong Hiến pháp là sở hữu đất đai thuộc Nhà nước. Đề xuất thứ ba là trong tình hình hiện nay nên đặt vấn đề đa dạng hóa sở hữu về đất đai.”
Nhận định này cho thấy tiếng nói thật của người dân vẫn chưa được lắng nghe và tiếp nhận đầy đủ. Câu hỏi đặt ra là “Phần lớn những người vẫn kiến nghị giữ nguyên chế định sở hữu toàn dân về đất đai” là bao nhiêu? Phần lớn đó là những ai, ai là những người được hỏi? Bao nhiêu trong số những ý kiến được hỏi đó là của người nông dân? Những ý kiến này được thu thập bằng những con đường nào và được xử lý ra sao?
Người phát ngôn của Ban chỉ đạo tổng kết thi hành Hiến pháp 1992 còn giải thích thêm rằng: “Cũng phải nói rằng đưa ra đề xuất thì dễ dàng nhưng để có những lập luận có đủ cơ sở lý luận cũng như thực tiễn đến mức thuyết phục thì tất cả kiến nghị trên đều chưa làm được.”
“Duy trì hình thức sở hữu toàn dân về đất đai sẽ tiếp tục duy trì sự mất quyền kiểm soát của chính nhà nước và tiếp tục phát sinh các hệ quả tiêu cực khác đối với người dân”
Nguyễn Minh Tuấn
Tôi nghĩ một đề xuất muốn thực sự thuyết phục cần có sự tham gia rộng rãi của người dân, đặc biệt là những nhà khoa học có chuyên môn. Chính sách ấy phải tối ưu hóa được các lợi ích, trong đó có lợi ích của nhà nước, của người dân, của các tổ chức, đồng thời đặt mục đích bảo vệ dân quyền lên vị trí ưu tiên nhất, vì đó mới là mục đích cuối cùng, cao nhất của bất kỳ bản Hiến pháp dân chủ nào.
Nói về đất đai, thực tế không có đất đai chung chung trừu tượng, chỉ có khu đất, thửa đất cụ thể. Nói về sở hữu, không có sở hữu toàn dân chung chung trừu tượng, chủ sở hữu luôn gắn với con người, cá nhân cụ thể. Tôi cho rằng nếu vẫn duy trì hình thức sở hữu toàn dân về đất đai sẽ tiếp tục duy trì sự mất quyền kiểm soát của chính nhà nước và tiếp tục phát sinh các hệ quả tiêu cực khác đối với người dân.
Vấn đề chính ở chỗ khi người dân bị thu hồi đất thì giá đền bù là cực kì ít ỏi, nhưng khi đất vào tay doanh nghiệp lại là tiền tỷ. Người được hưởng lợi thực tế cuối cùng không phải nông dân, cũng chẳng phải nhà nước, mà là những nhà doanh nghiệp và những người có quyền hô biến “đất” thành “vàng.”
Như sự kiện Tiên Lãng càng đặt ra yêu cầu bức xúc hơn bao giờ hết đó là phải thừa nhận và có cơ chế bảo vệ quyền sở hữu đất đai của dân. Vì vậy muốn giải quyết triệt để vấn đề sở hữu đất đai theo tôi cần đưa hai nội dung sau vào Hiến pháp để vừa bảo vệ được quyền sở hữu đất đai của cá nhân, tổ chức, nhà nước mà vừa bảo vệ quyền lợi của quốc gia trong những trường hợp đặc biệt :
Hiến pháp Việt Nam
Tác giả nhấn mạnh nhà nước có sứ mạng bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, trong đó có quyền tư hữu
Thứ nhất, đa dạng hóa các hình thức sở hữu đất đai, xác lập quyền sở hữu đất đai của cá nhân, doanh nghiệp đối với cả đất ở và đất nông nghiệp, xuất phát từ một cơ sở Hiến pháp bền vững quyền tư hữu là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Nhà nước sinh ra là để bảo vệ những quyền cơ bản của công dân trong đó có quyền tư hữu.
Thực tế, người dân chỉ có thể yên tâm làm ăn, yên tâm bỏ công sức, tiền bạc đầu tư, khi mà quyền sở hữu đất đai của họ được bảo vệ. Đa dạng hóa sở hữu có nghĩa rằng đối với từng mảnh đất, dù là đất công cũng phải có chủ sở hữu cụ thể.
Kể cả quyền sở hữu đất đai của nhà nước cũng nên được phân chia theo cấp độ quản lý ví dụ đất đai thuộc quyền sở hữu của trung ương, của cấp tỉnh, cấp huyện hay cấp xã một cách ổn định, lâu dài.
Thứ hai, chỉ thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh và người bị thu hồi được đền bù thỏa đáng. Nhà nước chỉ được thu hồi đất của người dân trong trường hợp đặc biệt vì mục đích an ninh, quốc phòng và trên cơ sở đã thống nhất với người bị thu hồi đất một mức bồi hoàn thỏa đáng.
Bổ sung hai qui định này thực tế không gây ra xáo trộn lớn, ngược lại ý nghĩa tích cực lại rất lớn vì chúng ta vừa bảo vệ quyền sở hữu đất đai của cá nhân, tổ chức mà lại vừa vẫn bảo vệ quyền lợi của nhà nước trong trường hợp cần thu hồi đất vì mục đích an ninh, quốc phòng.
Giải thích dân quyền
Về vấn đề quyền cơ bản của công dân, ông Hoàng Thế Liên, thay mặt Ban chỉ đạo tổng kết thi hành Hiến pháp 1992 đã chỉ ra một ý rất quan trọng là:
“Lâu nay chúng ta vẫn nói quyền a, quyền b được thực hiện theo quy định của pháp luật. Chính cái “đuôi” này gây khó khăn cho chúng ta, đó cũng là thái độ đối xử chưa tương xứng với quyền con người, với ý nghĩa nó là quyền cơ bản được Hiến pháp quy định. Lần này chúng tôi đề xuất theo hướng đã là quyền cơ bản của công dân thì phải được bảo đảm thực thi bằng luật và chỉ bị hạn chế bởi luật… Lần này chúng ta phải làm thế nào để Hiến pháp đã quy định thì Nhà nước phải bảo đảm thực thi, còn chưa được thực thi thì trách nhiệm thuộc về Nhà nước.”
“Gốc của vấn đề là quyền cơ bản được đặt ra để ràng buộc nhà nước, không phải là ràng buộc đối với cá nhân”
Nguyễn Minh Tuấn
Đây thực sự là một tín hiệu rất đáng mừng. Tuy nhiên theo tôi, nếu chỉ sửa như vậy thì mới chỉ giải quyết được phần ngọn mà vẫn chưa giải quyết được cái gốc của vấn đề. Gốc của vấn đề là quyền cơ bản được đặt ra để ràng buộc nhà nước, không phải là ràng buộc đối với cá nhân. Bởi vậy muốn quyền cơ bản thực sự có ý nghĩa và hiệu lực trên thực tế, theo tôi Ủy ban dự thảo sửa đổi hiến pháp sắp tới cần cân nhắc và tiếp tục làm rõ hai vấn đề sau:
Thứ nhất, cần phải bỏ qui định quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân (Điều 51 Câu 1 Hiến pháp 1992). Cách qui định này thực tế là rất tù mù.
Đối với một vấn đề, công dân chỉ có quyền hoặc nghĩa vụ, chứ không nên qui định quyền đồng thời là nghĩa vụ. Quyền là khả năng xử sự được phép, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Vì thế đã là quyền thì công dân có thể làm hoặc không làm.
Không nên qui định rằng các quyền như quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội (Điều 53 HP 1992), quyền bầu cử, quyền ứng cử (Điều 54 HP 1992), quyền tự do kinh doanh (Điều 57 HP 1992), quyền nghiên cứu khoa học (Điều 60 HP 1992), quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình (Điều 69 HP 1992), quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 70 HP 1992)…đồng thời là những nghĩa vụ.
Qui định như vậy các quyền trong Hiến pháp không còn đúng với ý nghĩa là các quyền cơ bản hiến định nữa.
Thứ hai, không phải chỉ đặt ra quyền cơ bản trong Hiến pháp là đã xong, cần phải giải thích nội hàm các quyền cơ bản đó là gì, giới hạn đến đâu, cách thức người dân có thể tự vệ như thế nào và bằng cách nào.
Theo suy nghĩ của tôi triệt để nhất là thiết lập cơ quan tài phán Hiến pháp độc lập, giao cho thiết chế này quyền giải thích hiến pháp và quyền tài phán Hiến pháp. Việc làm này vừa mang tính cấp thiết, vừa có tính lâu dài.
Phân quyền khoa học
Chính phủ Việt Nam
Cần cơ chế giám sát hoạt động chính phủ với 22 bộ trưởng, một thủ tướng, bốn phó thủ tướng của Việt Nam hiện nay?
Liên quan đến vị trí của Chính phủ, Thứ trưởng Hoàng Thế Liên cho rằng hiện có hai quan điểm. Nếu vẫn khẳng định Chính phủ là cơ quan chấp hành thì nhiệm vụ của Chính phủ không thay đổi. Nếu chấp nhận kiến nghị sửa đổi theo hướng Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp thì khi đó, Chính phủ sẽ giữ vai trò khởi xướng, hoạch định điều hành. Tuy nhiên, khi Chính phủ có tính năng động như vậy thì đòi hỏi cần có cơ chế giám sát chặt chẽ hoạt động của Chính phủ.
Tập quyền vào bất cứ một thiết chế nào hay một cá nhân nào cũng là nguyên nhân dẫn đến sự độc tài, chuyên chế. Muốn chống lại sự lạm quyền, độc tài, chuyên chế và bảo vệ dân quyền thì cần phải áp dụng những hạt nhân hợp lý của học thuyết phân quyền, bởi lẽ không có phân quyền thì không có nhà nước pháp quyền.
Robert von Mohl (nhà luật học người Đức), cha đẻ của học thuyết nhà nước pháp quyền (Rechtsstaat) cũng đã khẳng định nhà nước pháp quyền không thể thiếu sự phân quyền và một khi đã hiểu là phân quyền thì cũng không thể thiếu sự kiểm soát và cân bằng quyền lực. Phân quyền là yếu tố hình thức, là điều kiện tiên quyết của nhà nước pháp quyền, không có nó thì cho dù có biện minh thế nào, nhà nước đó cũng không được coi là nhà nước pháp quyền.
Nhà nước Việt Nam cũng đang hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền, vậy thì không thể đi ngược lại nguyên lý này. Để chống lại sự lạm quyền thì không thể khác hơn quyền lực nhà nước phải bị giới hạn. Muốn quyền lực nhà nước bị giới hạn thì phải tiến hành phân quyền một cách khoa học. Phân quyền một cách khoa học là phân quyền cả về chức năng, về tổ chức và cả về nhân sự. Phân quyền về chức năng: Các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được phân định rạch ròi.
Các quyền này về nguyên lý phải đặt ngang hàng nhau. Phân quyền về tổ chức, các quyền này được thực hiện bởi nhiều cơ quan khác nhau. Phân quyền về nhân sự, để đảm bảo tính độc lập, một người không thể đồng thời tham gia nhiều vị trí, thuộc các nhánh quyền lực khác nhau.
Quốc hội Việt Nam
Tác giả lưu ý tu chính Hiến pháp cần lưu ý tới bảo vệ dân quyền
Các nhánh quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp phải độc lập và có sự kiểm soát cả bên trong lẫn bên ngoài. Sự kiểm soát ở bên trong là kiểm soát lẫn nhau của chính các nhánh quyền này, kiểm soát ở bên ngoài là sự giám sát của công luận, báo chí và xã hội dân sự.
Ông Hoàng Thế Liên có đề cập đến vấn đề xác định vị trí pháp lý của Chính phủ. Thứ trưởng Tư pháp cũng chỉ ra rằng có hai phương án: xác định Chính phủ vẫn là cơ quan chấp hành như lâu nay hoặc xác định lại Chính phủ là cơ quan hành pháp độc lập.
Về vấn đề này tôi cho rằng nếu thừa nhận nhà nước ta hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền thì nên áp dụng hạt nhân hợp lý của cơ chế phân quyền, mà phân quyền thì hành pháp phải độc lập và phải chịu trách nhiệm. Muốn hành pháp chịu trách nhiệm thì cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm và các hệ quả pháp lý liên quan cần phải được làm rõ trong sửa đổi Hiến pháp lần này.
Đồng thời quyền hành pháp (executive/Exekutive) nên được tách bạch một cách khoa học hơn thành hai bộ phận đó là bộ phận có chức năng hoạch định chính sách (gubernative/Regierung) – gồm có Thủ tướng và các Bộ trưởng, với bộ phận hành chính có nhiệm vụ thi hành luật (administrative/Verwaltung) – gồm có các Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
Tách bạch như vậy mới làm rõ vấn đề hành pháp không chỉ có chức năng thi hành luật một cách thụ động, mà còn là thiết chế chủ động, có chức năng là đầu mối lập chính sách, thậm chí là thiết chế chủ lực xây dựng các dự thảo luật và ban hành các văn bản pháp quy.
Sửa Hiến pháp cần phải hướng đến ý nghĩa đích thực của Hiến pháp là bảo vệ dân quyền. Việc giới hạn quyền lực, ràng buộc trách nhiệm của nhà nước cuối cùng cũng là nhằm mục đích này. Tất cả các vấn đề như đã phân tích ở trên về việc đa dạng hóa quyền sở hữu đất đai, tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản hay vấn đề phân quyền, kiểm soát và cân bằng quyền lực suy đến cùng đều không nằm ngoài mục đích có tính nhân bản này.
Bài viết phản ánh quan điểm và cách hành văn riêng của luật sư Nguyễn Minh Tuấn, giảng viên Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, hiện đang làm nghiên cứu sinh tiến sỹ tại Đại học Saarland, CHLB Đức.

Không có nhận xét nào: