(Nhân dịp 30/4)
Trong niềm mừng vui và cay đắng lẫn lộn sau việc 21 ngư dân
đuợc trả tự do, tôi đã tìm thông tin từ các tờ báo chính thống, có giấy phép lẫn
những bài trên mạng. Và tiếc là thông tin không rõ ràng lắm về những gì xảy ra
với 21 ngư dân trong thời gian bị giam cầm. Đặc biệt thật đáng giận về sự lẫn
lộn vô tình, thiếu cái tâm, như sự đồng lõa tích cực hay tiêu cực đối với kẻ
đang chiếm đóng Hoàng Sa khi có báo dùng cụm từ: «21 ngư dân về nuớc (!)» (Hoàng
Sa là nước ngoài của Việt Nam hay sao?). Ai đó nói
viết báo kiểu đó (xin lỗi) ngu quá, nhưng nên hiểu có những từ ngữ nói lên rất
nhiều điều về người viết nó. Cũng như có những sự im lặng cũng cho ta hiểu thêm
nhiều ý niệm. Chỉ có sự thật là cụ thể, cụ thể hơn bất cứ cái gì khác. Vậy nên,
phải đem lại sự cụ thể ấy bằng một sự thật !
Là một cựu tù nhân của nhà tù Sài Gòn chế độ cũ, đương nhiên
tôi muốn đi tìm những thông tin cụ thể về điều kiện giam cầm 21 ngư dân vừa đuợc
trả tự do này, tôi gọi là những «tà-ru» mới. Trong bài viết của Tiền Phong
online ngày 23/04, bài báo mà đến nay, cùng với các bài trên báo Dân Việt, được
xem là có nhiều chi tiết nhất, tôi không tìm thấy một chữ nào về những cuộc thẩm
vấn của kẻ bắt 21 ngư dân, nhưng tôi đựợc biết họ đã bị bỏ đói, khát, bệnh không
đuợc chữa trị hoặc về tình trạng yếu dần của cơ thể… trong những ngày bị giam
cầm trên vùng đảo của Tổ quốc mình: Hoàng Sa. Tôi không tìm thấy những thông tin
rõ ràng về nơi giam cầm ngoài chi tiết là diện tích phòng giam rộng 40
m2 giành cho 11 người (hay 21 người?). Hoàn toàn không có thông tin
về sàn nhà là xi măng hay đất, ánh sáng, phòng vệ sinh, mái nhà…
Tại sao tôi phải dài dòng đến vậy ? Bởi chính những chi tiết đó
xác định rõ tính chất của việc giam cầm, thể hiện điều kiện sống hàng ngày của
các tù nhân, có ảnh huởng trực tiếp đến tinh thần và sức khỏe của họ.
Trong khi chờ đợi những thông tin rõ ràng hơn từ các ngư dân
«tà-ru» này, tôi có cảm giác rằng những điều kiện giam giữ của các ngư dân không
có nhiều điểm khác so với những điều kiện mà tôi đã biết ở Chí Hòa – nhà tù
trung tâm của chế độ cũ. Có hai chi tiết trên báo Tiền Phong khiến tôi chú ý:
« Ngư dân Võ Xuân Thạch (xã An Vinh) cho biết, dù đói khát ốm đau, nhưng các
ngư dân vẫn động viên nhau cố gắng trụ vững tinh thần để chờ ngày về. Đồng thời
cương quyết không nộp tiền cho Trung Quốc» và «…lính Trung Quốc “tăng
thực đơn” cho ngư dân bằng món bắp chuối trộn. Đó là món ăn ngon nhất ở nhà tù
Hoàng Sa».
Đoạn thứ nhất bộc lộ tinh thần đoàn kết đấu tranh của những
người tù, cuộc đấu tranh nội tâm và thầm lặng mà mỗi người đã tự đặt cho mình để
có thể tồn tại, vừa có ý nghĩa giữ lòng tự hào của một người tự do vừa để chiến
thắng nỗi sợ.
Đoạn thứ hai lại làm cho tôi nhớ đến trái chuối mà hàng ngày
tên cai ngục ở Chí Hòa «tặng» tôi, vừa nói lên tính hài hước, khả năng đối diện
với những khó khăn trước mắt. Trong những tình huống này, hài hước là một vũ khí
để sinh tồn. Các bạn tà-ru cũ đã từng bị nhốt trong chuồng cọp Côn Đảo biết rõ
điều đó. Họ cần nhiều hơn khả năng hài hước để chịu đựng những năm tù đày
ấy…
Và như vậy là tôi đã tìm thấy đuợc sự giống nhau của hai hoàn
cảnh giam cầm: của những ngư dân bị đối xử hà khắc bởi bọn Tàu và những cựu tù
chính trị của chế độ Sài Gòn. Cho dù, kịch bản hoàn toàn khác nhau. Trước tiên,
cũng như rất nhiều «tà-ru» của chế độ cũ, họ bị bắt tại nhà, ngoài đường, trong
trường đại học. Còn «tà-ru» mới cũng bị bắt khi đang ở ngay trên vùng biển Hoàng
Sa của mình vì những bất đồng chính trị mà chính âm mưu bành trướng của Trung
Quốc gây ra (không chỉ chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa, họ còn đặt tham vọng bá chủ
toàn biển đông bằng chính sách «đường lưỡi bò» tham lam). Những ngư dân này cũng
là nạn nhân dân sự không có vũ trang. Họ đang làm (đúng nghĩa của chữ «làm») một
cuộc chính trị mà cơ bản là sống và làm việc hòa bình tại đất nước của họ. Và
cái chính trị sinh tồn này đối đầu mãnh liệt với cái thứ chính trị xâm lược của
Trung Quốc.
Các ngư dân hiểu rất rõ điều này và biết rằng hiểm nguy luôn
rình rập bao vây khi họ ra khơi. Họ biết rằng hành nghề trong vùng biển Hoàng Sa
vừa có ý nghĩa sống còn, vừa tỏ thái độ chống đối kẻ xâm lược có tính nguy hiểm
cao. Quan trọng nhất, nó hoàn toàn mang ý nghĩa chính trị. Họ biết rằng, phần
lớn đồng bào của mình xem họ như những người lính không có vũ trang đang khẳng
định chủ quyền quốc gia của Việt Nam ở Hoàng Sa. Mặc kệ cho những từ ngữ mà giới
báo chí hay các nhà cầm quyền dùng để đánh giá họ, tôi nghĩ rằng, những người
này chẳng khác gì tù nhân chính trị, hoặc là những tù binh trong một cuộc chiến
tranh không tuyên bố ngày càng lan rộng do Trung Quốc gây ra. Hãy gọi «con mèo
là con mèo». Song họ lại không có một pháp nhân. Không hề có một thỏa thuận nào
để được bảo vệ bởi Trung Quốc khép tội họ là xâm hại lãnh hải, tù nhân ngoại
quốc, tù nhân «thường phạm». Và các nhà cầm quyền Việt Nam lại không dám công
khai tuyên bố họ là tù chính trị hoặc tù binh, những người đang bảo vệ đất nước
mình. Tình trạng này đáng được các tổ chức quốc tế «Amnesty international»,
«Human rights watch» đáng lưu tâm. Tuy nhiên, tình hình đang không có gì xảy ra
theo chiều hướng này.
Thực tế, từ năm 2002, tôi nghiên cứu và lập một tổng hợp về
những cuộc tấn công tại vùng Hoàng Sa đã chứng minh rằng, các binh lính Trung
Quốc đã từng hành hạ hơn một ngàn nạn nhân Việt Nam.
Đọc hàng chục bài báo của Việt Nam xuất bản trong những năm gần
đây và theo lời kể của các ngư dân mà tôi có dịp tiếp xúc trực tiếp, thì các ngư
phủ mới được trả tự do xác định họ bị đánh đập, bị nhốt trong một căn phòng chật
chội, bắt đi dọn phân… “Trong 14 lần tra hỏi, họ đã đánh và chích điện tôi
đến 60 lần” (2).
Với các thông tin này, tôi có thể nói rằng, sự đối đãi của lính
Trung Quốc giành cho ngư dân Việt không khác gì cách chế độ cũ giành cho các tù
nhân chính trị: đánh đập, hỏi cung lăng nhục, đe dọa, giam cầm trong những điều
kiện nhằm bào mòn một cách cố ý sức khỏe của tù nhân. Mục đích đánh gục tinh
thần, cho thiếu ăn, thiếu thuốc, áp lực dữ dội lên gia đình ở ngoài, ép buộc
người trong tù phải ký vào các văn bản thừa nhận tính hợp pháp của của kẻ xâm
lược. Chưa có một trường hợp tra tấn nào được nhắc đến. Nhưng liệu nguời ta có
xác định được là sự tra tấn bắt đầu từ lúc nào khi một con người không có chút
gì để tự vệ lại bị đấm, bị đá, bị ma trắc đập bởi 3 nguời lính đầy hận thù như
trường hợp của ngư dân Tiêu Viết Là ở Bình Châu? Mà cho đến nay, anh Là vẫn chưa
phục hồi được sau 3 năm bị đánh “hội đồng» như thế? Chích điện đến 60
lần cho một tù nhân có phải là sự tra tấn hay không???
Hơn nữa, cần lưu ý rằng, về một số khía cạnh, những «tà-ru’”
mới này phải chịu những điều kiện giam cầm còn tồi tệ hơn các tù nhân chính trị
của chế độ Sài Gòn. Vì sao? Họ không có người nhà thăm nuôi, không nhận được thư
từ, không được ra ngoài phơi nắng, không được tắm rửa. Nhóm của họ hoàn toàn bị
cô lập với thế giới bên ngoài và họ cũng không thể xác lập được một đường dây bí
mật có thể truyền tin liên lạc cho nhau. Với họ, việc trả tự do không có vị mật
ngọt như đối với các tù nhân ngày xưa. Thật vậy, họ sẽ gặp lại gia đình, nhưng
bên cạnh đó là những món nợ khổng lồ đang chờ họ, những món nợ có khi không cách
nào trả được – Quả như cả một cuộc đời bị cầm cố. Đây là một kiểu ở tù mới!
Tôi đã hứa với các bạn tù của tôi là sẽ quốc tế hóa chữ «tà-ru»
nhưng thật buồn mà nói rằng tôi không cần phí tổn nhiều công sức để thực hiện
lời hứa của mình bởi tình hình thời sự đang thay tôi làm việc “quảng cáo” đau
lòng này. Trước tình hình Trung Quốc đang ngày càng mở rộng những thám hiểm của
họ trên biển Đông, có nghĩa là số luợng «tà-ru” được dự báo sẽ nhân lên. Và, nếu
như lòng can đảm, sự đoàn kết và sự quyết tâm của lòng yêu nước chân chính ở một
số các nhà lãnh đạo cao nhất không chấp nhận trực diện với «con cá mập » Trung
Quốc đến từ biển Đông, thì những «tà-ru» của biển, đau đớn thay, sẽ ngày càng
đông. Những người mất tích và số «mộ gió» cũng theo đó tăng thêm.
Một số nuớc láng giềng, có những điều kiện dễ hơn Việt Nam, đã
bắt đầu ngẩng đầu trước sự bành trướng của Trung Quốc. Nước Việt Nam, có chủ
quyền về lãnh hải, có lịch sử 1.000 năm đánh quân phương Bắc xâm lược, đang ở
trong bối cảnh quốc tế mà khả năng đoàn kết ngày càng rõ nét hơn, lẽ nào chấp
nhận cúi đầu? Chúng ta cần phải hy vọng. Hy vọng và đấu tranh để không còn những
«tà-ru » mới trên biển cũng như trong đất liền của tổ quốc. Tôi hy vọng và đấu
tranh để cho những «tà-ru» cũ có thái độ, lời nói và hành động sát cánh với
những «tà ru» mới.
———————
Chú thích :
(1) « Tà-ru » là từ nói ngược lại của chữ «tù ra» do anh Trịnh
Văn Lâu, bí danh Tư Cần đặt ra trong những năm anh bị giam tại chuồng cọp và
trong trại số 6 Côn Đảo. Anh cũng là bí thư chi bộ Lưu Chí Hiếu trại số 6 và là
Chủ tịch đầu tiên của Côn Đảo sau ngày đất nước giải phóng. Hiện anh đang sống ở
thành phố Vĩnh Long.
(2) Lời nói của Ngư dân Lê Lớn trên tàu QNg – 66101 của chủ tàu
Lê Vinh (xem «21 ngư dân bị Trung Quốc giữ: 48 ngày giam cầm trong đói khổ» (Báo
Dân Việt online).
A.M. H.C.Q.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét