Ông Huỳnh Nhật Hải (phải) và ông Huỳnh Nhật
Tấn (trái)
Phạm Hồng Sơn
thực hiện
(Phỏng vấn Huỳnh Nhật Hải, Huỳnh Nhật
Tấn)
pro&contra: Hai anh
em, ông Huỳnh Nhật Hải sinh năm 1943, ông Huỳnh Nhật Tấn sinh năm 1946, là những
người, vào cuối năm 1988, đã cùng nhau tự ra khỏi Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN)
đồng thời từ bỏ luôn những chức vụ đang đảm nhiệm kèm theo những tiềm năng rất
lớn về quyền lực, quyền lợi: Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Đà Lạt kiêm
Thành ủy viên (đối với ông Huỳnh Nhật Hải) và Phó Giám đốc Trường Đảng tỉnh Lâm
Đồng kiêm Tỉnh ủy viên dự khuyết (đối với ông Huỳnh Nhật Tấn). Điều gì đã khiến
hai đảng viên cộng sản đầy tiềm năng của một gia đình có truyền thống cách mạng
từ trước năm 1945 lại có quyết định chia tay cách mạng khi sự nghiệp “cách mạng
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước”đã thành công hoàn toàn?
___________________
Phạm Hồng Sơn: Hai ông có
thể cho biết con đường nào đã đưa các ông đến với ĐCSVN?
Huỳnh Nhật Hải: Có thể nói hai
anh em chúng tôi đã được “nhuộm đỏ” từ bé. Chúng tôi đã có thiện cảm, tinh thần
ủng hộ, và làm những việc có lợi cho những tổ chức của cách mạng như Việt Minh
hay Mặt trận Dân tộc Giải Phóng miền Nam Việt Nam (Mặt trận) ngay từ khi còn rất
nhỏ tuổi. Vì ba má tôi là một gia đình tư sản ủng hộ Việt Minh tại Đà Lạt từ
trước năm 1945. Ba tôi là hội viên Công hội Đỏ và tham gia cướp chính quyền tại
Đà Lạt vào năm 1945 và sau đó trở thành đảng viên bí mật của Đảng Cộng sản Đông
Dương (tên gọi lúc đó của ĐCSVN). Hai anh trai tôi là những người đi tập kết ra
Bắc sau năm 1954.
Huỳnh Nhật Tấn: Có thể nói là
ngay từ nhỏ, mở mắt ra là chúng tôi đã được nghe, được thấy, được sống trong
tinh thần của cách mạng, tôi cứ tạm gọi là “cách mạng” đi. Đó là những năm thơ
ấu của chúng tôi ở trong “vùng tự do” liên khu 5, khi gia đình chúng tôi phải
tránh sự truy lùng của Pháp từ khoảng cuối 1945 đến năm 1954, và cả thời gian
sau đó khi ba má tôi trở lại Đà Lạt (sau Hiệp định Genève) để tiếp tục nhiệm vụ
ủng hộ bí mật cho ĐCSVN và Mặt trận dưới hình thức là một gia đình tư sản.
Phạm Hồng Sơn: Hai ông có
nhớ đã có ảnh hưởng nào đến từ ngoài gia đình không?
Huỳnh Nhật Tấn: Có, những trí
thức như giáo sư, nhà văn, nhạc sĩ có tên tuổi lúc đó mà đi với Việt Minh hay
Mặt trận cũng gây cho chúng tôi sự lôi cuốn, cảm hứng âm thầm nhưng rất lớn. Đặc
biệt là qua quan sát, tiếp xúc với những cán bộ hoạt động bí mật đã sống ở nhà
tôi thì hai anh em tôi thấy đó là những con người rất đáng khâm phục, họ vừa có
tinh thần kỷ luật, chịu đựng, hy sinh rất lớn vừa có những lý tưởng rất cao đẹp
là quyết giành lại độc lập cho đất nước và tự do cho dân tộc.
Huỳnh Nhật Hải: Một yếu tố nữa
cũng làm cho chúng tôi ủng hộ Mặt trận là sự xuất hiện của quân đội Mỹ tại miền
Nam. Sự xuất hiện đó làm cho những người như chúng tôi cảm thấy bị xúc phạm về
chủ quyền dân tộc. Chúng tôi cảm thấy là miền Nam đang bị người Mỹ xâm lăng và
cần phải chống lại họ và chính quyền thân Mỹ tại miền Nam.
Phạm Hồng Sơn: Thời gian từ
khi Mặt trận được thành lập (năm 1960) cho tới năm 1975 các ông làm những việc
gì để ủng hộ “cách mạng”?
Huỳnh Nhật Hải: Công việc của cả
hai anh em chúng tôi đều cùng có hai giai đoạn khác nhau, trước và sau khi chúng
tôi “nhẩy núi”, tức là phải bỏ gia đình để vào tận căn cứ trong rừng sâu để hoạt
động. Tôi “nhảy núi” vào đúng mồng 3 Tết Mậu Thân 1968 còn em tôi, Huỳnh Nhật
Tấn, “nhảy núi” trước đó vài tháng khi đã bị lộ.
Huỳnh Nhật Tấn: Trước khi “nhảy
núi”, anh em chúng tôi làm công tác liên lạc, vận động trong giới thanh niên,
học sinh, sinh viên tại Đà Lạt để thành lập các nhóm, tổ chức, đoàn thể hoặc in,
tán phát truyền đơn hay khẩu hiệu đấu tranh cho Mặt trận.
Huỳnh Nhật Hải: Sau khi “nhảy
núi”, hai anh em chúng tôi, mỗi người một nơi, nhưng đều ở bộ phận công tác
phong trào thanh niên học sinh, sinh viên. Anh em chúng tôi thường phải đi vào
những “vùng lõm“ (vùng dân cư mà ban ngày do chính quyền Việt Nam Cộng hòa kiểm
soát còn ban đêm thuộc về lực lượng của Mặt trận) để bắt liên lạc, tiếp nhận hay
vận động ủng hộ về vật chất, tinh thần cho Mặt trận.
Phạm Hồng Sơn: Những công
việc đó chắc phải rất mạo hiểm và hết sức khó khăn?
Huỳnh Nhật Tấn: Đúng thế, chúng
tôi phải rất kiên trì, khôn khéo trong công tác vận động và không phải lần vận
động nào cũng thành công. Cả hai anh em chúng tôi cũng đã bị phục kích hoặc chạm
trán với lực lượng quân đội của Việt Nam Cộng hòa, nhưng rất may cả hai chỉ bị
thương nhẹ trong một, hai lần.
Phạm Hồng Sơn: Sau
30/04/1975 các ông được giữ ngay chức Phó Chủ tịch UBND Thành phố hoặc Phó Giám
đốc Trường Đảng?
Huỳnh Nhật Hải: Không phải như
thế. Sau 30/04/1975 tôi tiếp tục công tác ở Thành đoàn, sau đó mới chuyển qua
công tác chính quyền. Năm 1977 tôi được kết nạp Đảng. Năm 1979 làm Chủ tịch khu
phố I Thành phố Đà Lạt, rồi sau khi đi học Trường Đảng ở Tây Nguyên trong một
năm đến năm 1981 là tôi trở thành Phó Chủ tịch UBND Thành phố Đà Lạt, là Thành
ủy viên.
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi thì được kết
nạp Đảng từ năm 1972 sau khi “nhảy núi”. Ngay tháng 10/1975 tôi đã được chọn vào
số cán bộ đầu tiên gửi ra Bắc học ở Trường Tuyên huấn Trung ương ở khu Cầu Giấy,
Hà Nội trong 3 năm rồi trở về giảng dạy môn kinh tế chính trị tại Trường Đảng
tỉnh Lâm Đồng. Và sau lần ra học tiếp ở Hà Nội tại Trường Tuyên Huấn Trung Ương
trong 03 năm nữa, đến năm 1986 tôi được bổ nhiệm vào chức Phó Giám đốc trường
Đảng tỉnh Lâm Đồng, đồng thời được cơ cấu vào cấp Tỉnh ủy, là Tỉnh ủy viên dự
khuyết.
Phạm Hồng Sơn: Một cách ngắn
gọn, lý do gì đã khiến hai ông gần như đồng thời quyết định từ bỏ Đảng kiêm các
chức vụ đó?
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi còn nhớ
trong lá đơn xin ra khỏi Đảng lúc đó tôi có viết một câu: “Tôi không tin ĐCSVN
có thể lãnh đạo đưa đất nước đạt được những điều tốt đẹp như Đảng thường
nói.”
Huỳnh Nhật Hải: Còn trong lá đơn
của tôi viết sau ông em tôi một vài tháng, tôi nhớ đã viết là: “Tôi không còn
động cơ để phấn đấu cho mục tiêu và lý tưởng của Đảng nữa.” Nhưng thực sự trong
thâm tâm thì cũng giống như ông em tôi đã nói ở trên. Tôi không tin ĐCSVN
nữa.
Phạm Hồng Sơn: Quá trình đi
đến sự bất tín đó diễn ra như thế nào?
Huỳnh Nhật Hải: Đó là một quãng
thời gian kéo dài khoảng 5-7 năm, thông qua những quan sát, tìm hiểu, trao đổi,
bàn bạc và trằn trọc từ mỗi bản thân và gần như chỉ giữa hai anh em chúng
tôi.
Huỳnh Nhật Tấn: Có thể nói chúng
tôi đi đến sự bất tín vào ĐCSVN là dựa vào những gì chúng tôi thấy, chúng tôi
gặp trên thực tế hơn là từ vấn đề lý luận.
Phạm Hồng Sơn: Những “thực
tế” nào quan trọng nhất khiến hai ông nhận thức lại ĐCSVN?
Huỳnh Nhật Tấn: Đó chính là
những chính sách về quản lý xã hội, điều hành kinh tế và việc tôn trọng các
quyền tự do, dân chủ của người dân của ĐCSVN. Về quản lý xã hội, ĐCSVN đã không
quản lý bằng pháp luật mà bằng sự tùy tiện, áp đặt, gần như hoàn toàn chỉ dựa
theo các chỉ thị, ý muốn từ lãnh đạo Đảng. Ví dụ việc tịch thu nhà cửa, tài sản
hay đưa đi “học tập cải tạo”, thực chất là bỏ tù con người, đều không dựa trên
pháp luật hay xét xử của tòa án. Điều hành kinh tế thì lúc đó chúng tôi thấy
những chính sách rất kỳ cục và phản khoa học, ví dụ như có những chỉ thị là Đà
Lạt phải sản xuất bao nhiêu rau hay các huyện khác phải sản xuất bao nhiều mì[i] mà không cần biết khả năng và lợi thế về thổ nhưỡng, thói quen
canh tác của người dân hoặc việc giao quyền lãnh đạo kinh tế không dựa vào
chuyên môn, kinh nghiệm mà lại dựa vào thành phần giai cấp và sự gắn bó với
Đảng. Về các quyền tự do dân chủ của người dân, càng ngày chúng tôi càng thấy
thực tế lại tồi tệ và khó khăn hơn rất nhiều so với thời Việt Nam Cộng hòa. Ví
dụ như khi hoạt động trước 1975, chúng tôi đã từng cho một số viên chức chính
quyền đọc cả cương lĩnh của Mặt trận nhưng những người đó không coi chúng tôi là
thù địch, họ coi việc khác biệt quan điểm là chuyện hết sức bình thường. Nhưng
sau năm 1975 mọi thứ không như thế nữa, tất cả mọi hoạt động, kể cả trong tư
tưởng, mà khác với quan điểm của ĐCSVN thì đều không được chấp nhận. Báo chí tư
nhân, biểu tình, bãi công, bãi thị đã hoàn toàn bị cấm ngặt mặc dù những bất
công, nhu cầu lên tiếng của xã hội hết sức bức bối. Có thể nói điều lớn nhất để
chúng tôi nhận thức lại ĐCSVN là sự độc tài toàn trị dựa trên bạo lực và không
tôn trọng những quyền căn bản của người dân.
Phạm Hồng Sơn: Các ông đã
quen biết những nhân vật như ông Hà Sĩ Phu hay ông Mai Thái Lĩnh,…những cư dân
tại Đà Lạt lúc đó chưa?
Huỳnh Nhật Hải: Chúng tôi chưa
biết ông Hà Sĩ Phu, còn ông Mai Thái Lĩnh thì chúng tôi đã biết nhau từ hồi cùng
“nhảy núi” nhưng sau 30/04/1975 chúng tôi gần như chưa trao đổi hay bàn luận gì
với nhau cả. Anh em chúng tôi trước khi quyết định bỏ về đã nói với nhau là
“chúng ta đi làm cách mạng không phải để xây dựng nên một nhà nước chuyên chính
độc tài như thế này.”
Phạm Hồng Sơn: Gia đình,
những người thân và bạn bè đồng chí của các ông có phản ứng gì trước quyết định
đó?
Huỳnh Nhật Hải: Lúc đó ba má tôi
đều đã qua đời nhưng chúng tôi tin rằng nếu còn sống ba má tôi cũng ủng hộ việc
từ giã ĐCSVN của chúng tôi. Hai bà xã của chúng tôi ủng hộ hoàn toàn quyết định
về nhà tự làm ăn của chúng tôi.
Phạm Hồng Sơn: Thế còn hai
anh trai, những người đã đi tập kết sau 1954, và những đồng chí thân quen của
hai ông?
Huỳnh Nhật Tấn: Anh trai cả của
chúng tôi thì gần như không có ý kiến gì, còn người anh trai thứ hai thì không
đồng ý. Còn những đảng viên đồng sự khác và các cấp lãnh đạo lúc đó hoàn toàn
ngạc nhiên, gần như tất cả mọi người đều khuyên chúng tôi xem xét lại. Có người
lúc đó đã nói với tôi là nếu về thì cuộc sống sẽ rất khó khăn, nhưng tôi xác
định trong lòng là trước đây khó khăn nguy hiểm như thế mà còn chịu được thì lẽ
nào bây giờ lại không.
Phạm Hồng Sơn: Khi “trằn
trọc” để đi đến quyết định cuối cùng, hình ảnh hay tư tưởng của lãnh tụ Hồ Chí
Minh có vấn vương trong “trằn trọc” đó?
Huỳnh Nhật Tấn: Có. Chúng tôi
lúc đó cũng thấy cần phải xem lại cả ông Hồ Chí Minh – lãnh tụ, người sáng lập
ra ĐCSVN.
Phạm Hồng Sơn: Các ông thấy
thế nào?
Huỳnh Nhật Hải: Sau khi cùng tìm
hiểu, trao đổi, bàn luận chúng tôi nhận thấy tình trạng mất tự do, phi dân chủ
hay có thể nói là cuộc sống kìm kẹp, đau thương của nhân dân, của giới trí thức
sau chiến thắng 30/04/1975 ở miền Nam hoàn toàn là sự lặp lại y nguyên tình
trạng ở miền Bắc sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 – thời kỳ mà ông Hồ Chí
Minh vẫn hoàn toàn ở trên đỉnh cao quyền lực.
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi đã từng tự
hỏi là mục tiêu sâu xa của ông Hồ Chí Minh là gì? Với những gì lịch sử đã diễn
ra khi ông Hồ Chí Minh còn sống thì tôi thấy mục tiêu của ông Hồ Chí Minh vì
quyền lực là chính, còn mục tiêu độc lập cho đất nước hay tự do, dân chủ cho dân
tộc, cho xã hội Việt Nam đã bị ông Hồ Chí Minh coi nhẹ. Hai mục tiêu tốt đẹp đó
chỉ là những ngọn cờ để ĐCSVN lôi kéo, tập hợp quần chúng và giới trí thức cho
mục đích giành quyền lực cho ĐCSVN. Thực tế chính quyền dưới thời ông Hồ Chí
Minh đã biểu hiện đi ngược lại hoàn toàn hai mục tiêu tốt đẹp đó, độc lập cho
dân tộc và tự do, dân chủ cho nhân dân.
Phạm Hồng Sơn: Vâng, về vấn
đề tự do, dân chủ cho nhân dân thì đã rõ, nhưng còn về độc lập dân tộc, xin ông
nói rõ thêm?
Huỳnh Nhật Tấn: Có thể nói ông
Hồ Chí Minh đã đưa đất nước thoát khỏi sự phụ thuộc, đô hộ của người Pháp nhưng
lại để đất nước trở lại sự phụ thuộc, khống chế và thôn tính của Trung Quốc cộng
sản. Nếu không có sự đồng ý, chủ kiến ngoại giao của ông Hồ Chí Minh thì không
thể có tình hữu nghị Việt-Trung như “môi với răng” và cũng không thể có Công
hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng. Một cách ngắn gọn, có thể nói ông Hồ Chí
Minh đã vô tình tạo điều kiện thuận lợi cho sự xâm lăng, thôn tính của Trung
Quốc cộng sản đối với Việt Nam như chúng ta đang chứng kiến.
Phạm Hồng Sơn: Liệu có công
bằng không khi tình trạng mất độc lập, mất chủ quyền hiện nay qui hết cho Hồ Chí
Minh?
Huỳnh Nhật Tấn: Đúng là tình
trạng lâm nguy của đất nước hiện nay không thể qui hết cho ông Hồ Chí Minh.
Nhưng bất kỳ một lãnh tụ, một nhà sáng lập của một đảng, một tổ chức chính trị
nào cũng đều có ảnh hưởng rất căn bản tới tầm nhìn, hành động của các thế hệ kế
tiếp, dù xấu hay tốt. Tôi nhớ ngay trong văn kiện, khẩu hiệu của ĐCSVN vẫn luôn
khẳng định ông Hồ Chí Minh là người sáng lập, tổ chức, lãnh đạo, rèn luyện “Đảng
ta”, tức là ông Hồ Chí Minh đã là kiến trúc sư cho mọi chính sách, đường lối của
ĐCSVN cũng như thể chế, cung cách quản lý xã hội của ĐCSVN.
Huỳnh Nhật Hải: Đúng như thế,
theo tôi, mặc dù ông Hồ Chí Minh đã mất rồi nhưng tư tưởng, đường lối chính trị
của ông ấy vẫn được tiếp tục kế thừa trong ĐCSVN. Không phải ngẫu nhiên mà ĐCSVN
hiện nay vẫn hô hào học tập tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh.
Phạm Hồng Sơn: Nhưng nhiều
người cho rằng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh là rất tốt đẹp, đáng học
theo?
Huỳnh Nhật Hải: Đúng, rất tốt
đẹp và đáng học nếu chỉ căn cứ vào lời nói và khẩu hiệu như ông Hồ Chí Minh đã
đề ra. Và đúng là ĐSCVN hiện nay cũng đang thực hiện đúng như thế, các khẩu
hiệu, lời nói, mục tiêu của họ hiện nay cũng rất hoặc khá tốt đẹp, nhưng hành
động và thực tế thì lại hoàn toàn ngược lại – cũng như ông Hồ Chí Minh.
Huỳnh Nhật Tấn: Nếu chỉ căn cứ
vào truyền thống nhân ái của người Việt Nam thông thường thôi thì cũng thấy đáng
lý ra, với cương vị là người có quyền hành cao nhất, ông Hồ Chí Minh phải ra
lịnh không được giết hoặc hãm hại ân nhân của mình như vụ xử bắn bà Nguyễn Thị Năm và nhiều
người khác trong Cải cách Ruộng đất. Hoặc những vụ bắt bớ, thanh trừng các đồng
sự, các ân nhân của ĐCSVN sau này mà không qua xét xử thì ông Hồ Chí Minh không
thể không biết là trái đạo lý. Nếu ông Hồ Chí Minh thực sự là người vì nước vì
dân thì sau khi lên nắm quyền, điều đầu tiên ông Hồ Chí Minh phải làm là phải để
nhân dân và giới trí thức có nhiều tự do hơn thời thực dân Pháp chớ.
Phạm Hồng Sơn: Nếu được sống
lại thời tuổi trẻ một lần nữa, các ông có tiếp tục ủng hộ và đi theo Việt Minh,
Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam hay ĐCSVN?
Huỳnh Nhật Hải: Không, không bao
giờ.
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi sẽ phải bình
tĩnh hơn, tìm hiểu xem họ có ủng hộ và có tư tưởng dân chủ thực sự không, chứ
không thể chỉ căn cứ vào lời nói và tuyên truyền của họ. Theo tôi, vấn đề dân
chủ phải được đặt cao hơn vấn đề dân tộc vì chỉ có dân chủ mới giúp cho dân tộc
được tự do đúng nghĩa và khi đó đất nước mới có nền độc lập bền vững.
Phạm Hồng Sơn: Ngày
30/04/1975 các ông đang ở đâu và cảm xúc như thế nào?
Huỳnh Nhật Tấn: Lúc đó tôi đang
ở Đà Lạt. Tôi đã trở về Đà Lạt từ ngày 03/04/1975 với tư thế của người chiến
thắng.
Huỳnh Nhật Hải: Tôi về Đà Lạt
sau ông em tôi một ngày, ngày 04/04/1975. Cảm xúc của tôi là sung sướng vô cùng,
nhất là khi gặp lại má tôi – má đã tưởng tôi hy sinh từ năm 1971 và đã đưa ảnh
tôi lên bàn thờ.
Phạm Hồng Sơn: Dịp 30/04
hàng năm vẫn là một trong những ngày lễ lớn của cả đất nước, cảm xúc của các ông
ra sao trong những ngày này?
Huỳnh Nhật Hải: Buồn. Nếu không
có cuộc chiến tranh tương tàn giữa hai miền trước 1975 thì dân tộc này không có
cái bất hạnh, đau khổ như ngày hôm nay.
Huỳnh Nhật Tấn: Buồn. Một ngày
quá buồn. Cái chiến thắng 30/04 chỉ đem lại một sự áp bức trên mọi phương diện
cho nhân dân, đất nước và lại nặng nề hơn cả thời Pháp thuộc.
Phạm Hồng Sơn: Nếu bây giờ
vô tình hai ông gặp lại một người là cựu viên chức cũ của chế độ Việt Nam Cộng
Hòa và người đó chính là “kẻ thù” của ông trước 1975, điều trước tiên hai ông
muốn nói là gì?
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi có lỗi với
dân tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt huyết của tôi đã góp phần dựng nên chế độ độc
tài hiện nay, đã vô tình đem lại sự đau khổ hiện nay. Và nếu xét về những căn
bản để bảo đảm tự do cho nhân dân và độc lập cho dân tộc thì tôi cũng đã vô tình
góp công sức đưa những người mang danh là “cách mạng” nhưng thực chất là vì
quyền lực tới phá bỏ một chế độ đã được xây dựng trên những căn bản về tự do,
dân chủ và nhân bản tại miền Nam Việt Nam.
Huỳnh Nhật Hải: Bây giờ nhìn
lại, con đường chúng tôi đã đi trước 1975 là một con đường sai lầm. Sự nhiệt
huyết lúc đó của chúng tôi đã đem lại bất hạnh hơn là hạnh phúc cho dân tộc.
Phạm Hồng Sơn: Xin trân
trọng cảm ơn ông Huỳnh Nhật Hải, Huỳnh Nhật Tấn.
© 2012 pro&contra
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét