Thầy giáo Đinh Đăng Định
Người Cao Nguyên
“Thầy giáo Đinh Đăng Định bị bắt và cách đây hai tháng bị cáo buộc “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” và “lợi dụng quyền tự do dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước”. Bài dưới đây của một độc giả ghi lại cảm nghĩ của mình sau chuyến đi thăm gia đình thầy giáo Đinh Đăng Định.”
Biết về anh qua lời giới thiệu một người bạn:”Anh ấy có tấm lòng với đất nước, em thử đọc những gì anh ấy viết, nếu có dịp, em lên thăm anh ấy, bạn anh”. Gõ tên anh, Google Chrome hiện ra một list. Không thật nhiều. Một lúc sau, “Anh ấy hiện giờ sao anh?”.”Bị bắt rồi em, bây giờ không biết ở đâu nữa, với cũng lâu anh không gặp anh ấy”. Khựng lại một chút, “Lâu chưa anh?”.”Hình như hồi tháng 11”. Đọc một lúc nữa, “Sao em chẳng nghe tin gì về anh ấy nhỉ?”.”Anh ấy đơn độc. Nên khi bị bắt, không ai lên tiếng cho anh ấy cả”. “Dạ, nếu có dịp em sẽ thăm gia đình anh ấy”.
Cao nguyên, một ngày đầy gió, đi trên một mảnh đất bazan một thời ngút ngàn rừng, chỉ còn vài cây chơ vơ trong nắng. Chuyến đi không dài, cũng mù mờ về cái địa chỉ được đưa. Quá trưa, lòng vòng những số nhà thật lộn xộn của Thị trấn Kiến Đức, Đăk R’Lấp.
Một ngôi nhà gỗ, cũ kĩ hiện ra. Một cô bé nói chuyện với bạn trước cửa, “Cho anh hỏi đây phải đây là nhà thầy Định không em?”. Một đôi mắt nhìn lạ lẫm, nghi ngờ: “Dạ, có chuyện gì không anh?”. “À, người cùng quê thầy Định, nên đến nhà anh ấy hỏi thăm? Mẹ ở nhà không em?”. “Em không biết nữa”. “Em biết mẹ đâu không?”.”Dạ, em không biết, bình thường giờ này mẹ trên vườn, anh thử lên sau vườn tìm mẹ”. Một mảnh vườn nhỏ với mấy cây điều xác xơ. Không thấy ai. Quay lại, cô bé cũng không dám mời vào nhà. Tôi cố gắng nói chuyện với cô bé.”Ba bị trước Tết lâu không em?”. Đôi mắt cúi xuống, chợt buồn.”Cũng lâu anh ạ”.
Một lúc, một người phụ nữ về, hỏi tôi: “Cháu tìm cô có việc gì không?” “Dạ cháu được một người bạn nhờ cháu đến thăm gia đình chị”. Tôi gọi người anh nhờ đến thăm, và một cuộc điện thoại khá dài. Chắc anh muốn hỏi thăm và an ủi gia đình chị. Sau cuộc điện thoại, chị mới tin tưởng mời tôi vào nhà và gọi cô bé rót nước.
Ngôi nhà chẳng có gì đáng giá, không thấy một thiết bị điện tử nào, tivi không, điện thoại không. Một chiếc xe máy, có lẽ lâu lắm rồi không ai nổ máy. Một tấm bảng đen nhỏ, một giá sách khá nhiều sách, tôi nhìn qua, phần lớn là sách về Hóa học và dạy học, từ lâu đã không chắc không được ai cầm tới.
Chị kể: _ “Gia đình trước trông cậy vào tiền lương ông ấy, bây giờ không biết sao nữa, chị bây giờ làm dọn dẹp trong trường, hồi xưa ông ấy xin cho vào đó, may mà người ta vẫn cho làm. Lương thấp, chỉ 2 triệu một tháng. Đi làm ngoài kia, 6, 7 cây số, mà phải đi xe buýt. Vất vả lắm em ạ. Cả gia đình giờ chỉ có vậy. Con bé này đang học lớp 11, có một đứa chị đang học dưới Sài Gòn, cũng may có chị đầu đi làm dưới đó nuôi với, chứ mình cô nuôi sao nổi. Gia đình bây giờ cũng ngại lắm. Không dám gặp ai và ai đến thăm cũng ngại. Bữa trước anh trai ông ấy đến thăm, chị chỉ dám mời ở lại ăn cơm rồi nói bác ấy đi, không người ta [?] lại nghĩ này nghĩ nọ”.
_ “Lâu nay chị có gặp anh ấy không?”.
_ “Anh ấy hiện giờ ở trên tỉnh, khi nào chị muốn gặp phải lên xã xin giấy, rồi lên trên đó xin gặp”.
_ “Từ ngày đó đến nay, gia đình chị có chuyện gì phiền phức không chị?”.
_ “Cũng bình thường, lâu lâu công an họ cũng gọi đến, họ nói có chuyện gì để giải quyết, đừng nói này nói nọ. Có một chị dưới Phú Nhuận gì đó, cứ gọi cho chị nói chị cứ nói những chuyện xảy ra, nhưng chị không dám nói, chuyện nó thế rồi”.
Biết không nên ngồi lâu, tôi xin phép chị ra về, vì tôi biết chị ngại khi có người lạ đến nhà. Khẩn khoản mãi, xin số điện thoại chị, lúc đầu chị từ chối. Đến khi tôi hứa với chị là không cho thêm ai số, và không làm gì để anh hưởng đến gia đình chị, chị mới dám cho. Tôi để lại số điện thoại: “Nếu chị ngại lưu vào máy, em ghi vào tờ giấy”, rồi đưa cho chị.
Tôi về, suy nghĩ mãi về họ. Một gia đình nhà giáo nghèo. Ba đứa con gái ngoan ngoãn, giỏi giang và rất dễ thương (ắt hẳn điều đó khi nhìn cô bé út). Có lẽ trước đây họ đã sống rất đầm ấm. Nhưng bây giờ, một thầy giáo già, một cưu trung úy phòng hóa quân đội, một người con lớn lên dưới chân núi An Phụ, Kinh Môn, Hải Dương nổi tiếng với đền thờ An Sinh Vương Trần Liễu, đang ngồi trong tù, chắc chắn vẫn đang trăn trở cho gia đình mình, đất nước mình. Vợ và con anh ấy, mỗi khi thăm anh ấy, chỉ được 15 phút, vượt qua bao nhiêu khó khăn từ giấy tờ, phương tiện đi lại.
Mà anh ấy đã làm gì sai để đến nỗi thế. Hay chỉ tại một tấm lòng trăn trở với đất nước, với quê hương, nơi anh ấy tận mắt chứng kiến những cánh rừng đầu nguồn bị tàn phá, những hậu quả lâu dài mà việc khai thác mỏ bauxite, những khó khăn của người dân nơi anh ấy sinh sống. Mà anh ấy đã làm gì, anh chỉ đi thu thập chữ kí phản đối của người dân trong vùng kế hoạch khai thác bauxite vĩ cuồng ấy (trong bức thư gửi đến trang Bauxite Việt Nam anh nói đã có 629 chữ kí). Hay tại anh ấy thường xuyên đọc những trang báo trên mạng như Bauxite Việt Nam, những BBC, những đài báo quốc tế để hiểu biết một cách chân thực hơn tình hình đất nước không chỉ qua những tờ báo tuyên truyền đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước, những chương trình TV lặp đi lặp lại như những cái máy những thứ nhàm chán và thô thiển. Để rồi bây giờ, anh ngồi trong tù, chắc hẳn anh thương người vợ gầy vẫn cặm cụi trong ngôi nhà gỗ nhỏ bé và trống trải với đứa con gái út rất dễ thương của và ngoan ngoãn của anh lắm.
Anh ngồi trong tù chắc đau đớn nghĩ đến nỗi lo sợ, cô đơn của người thân mình khi không dám gặp hàng xóm, họ hàng. Chắc hẳn anh khó ngủ lắm khi biết tin những đứa con gái anh đi học, đi làm dưới Sài Gòn mà vẫn thường xuyên được các anh công an đến hỏi thăm tình hình. Một người đơn độc đi đến từng nhà người dân để nói cho họ hiểu vấn đề về cái công trường Trung Quốc xây dựng trên mảnh đất của họ, công trường đã phá hết những cánh rừng đầu nguồn của mảnh đất cao nguyên hùng vĩ với dòng sông Sêrêpok vẫn ầm ầm đổ thác trên những Đray Sap, Đray Nu, Gia Long,… rồi mai còn nữa không. Cái dự án điên cuồng phá hoại chừng 8% diện tích đất Đăk Nông nơi anh ở, bằng ¼ diện tích TP. Hồ Chí Minh (bao gồm tất cả tất cả những quận huyện ngoại thành). Anh đơn độc quá, đơn độc trong những việc làm của mình, bây giờ anh đơn độc một mình hơn 6 tháng trong tù mà bên ngoài không ai biết chuyện gì, không ai biết để bênh vực anh. Và bây giờ, sự cô đơn đó lan sang gia đình anh, cô đơn với cả chính họ hàng, láng giềng, bạn bè. Tôi bị ám ảnh bởi đôi mắt họ, một đôi mắt in vài nếp nhăn của người vợ, một đôi mắt tròn xoe rất đẹp của cô con gái. Sâu trong đó, là một nỗi buồn vô tận, một sự cam chịu và sợ hãi đến nỗi không dám lưu số điện thoại một ai đó trong máy điện thoại của mình.
N. C. N.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét