Pages

Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2012

SAU HỘI NGHỊ 6, THỬ NHÌN LẠI ĐẢNG CSVN


Lỗ Trí Thâm
 Kết quả Hội Nghị Trung Ương vừa rồi bất thường. Việc Ban Chấp Hành Trung Ương bác bỏ quyết định của Bộ Chính Trị là điều bình thường, và đúng với điều lệ của Đảng, Ban Chấp Hành Trung Ương là cơ quan quyền lực cao nhất. Thế nhưng chỉ bác bỏ khi quyết định của Bộ Chính Trị không đủ sức thuyết phục hay sai trái, đây lại công nhận kết luận nhưng từ chối đưa ra kỉ luật. Đó là thừa một lí do để ta thử nhìn lại, đảng Cộng Sản Việt Nam là ai.
 Vào những năm 30 của thế kỉ trước, khi mà các cuộc khởi nghĩa chống lại thực dân Pháp đã thất bại và đi vào bế tắc thì xuất hiện một lực lượng chống đối mạnh mẽ khác xuất hiện, đó là những người cộng sản. Đây là sự thách thức nghiêm trọng ách thống trị của thực dân Pháp, do những người cộng sản sử dụng phương pháp đấu tranh dựa trên lực lượng và tổ chức chính trị, nhất là có hỗ trợ và liên kết ở bên ngoài, tức Quốc Tế Cộng Sản.

 Tôn chỉ của những người Cộng Sản dựa theo triết học và lí thuyết xã hội của Mác (tôi tránh dùng từ chủ nghĩa, vì trên thế giới không có triết học nào là chủ cả, nó nhiều, đa dạng và biến đổi theo thời đại). Thứ lí thuyết này xuất hiện ở châu Âu vào thế kỉ thứ 19 khi mà thế giới đang chuyển mình, cách mạng khoa học cùng sự tích lũy của cải của tầng lớp thượng lưu, mà ta thường gọi là thời kì hoang dã của Chủ Nghĩa Tư Bản. Học thuyết này chủ yếu nêu sự mâu thuẫn giữa chủ và giai cấp công nhân và thực sự không hấp dẫn cho các nước thuộc địa.
 Tình thực sự thay đổi khi Lý Ninh (Lê Nin) bên Nga, 1917, dựa vào hậu thuẫn của vua Đức, bạo loạn lật đổ chế độ Sa Hoàng, tuyên bố thành lập nhà nước Xô Viết, với đặc trưng là tư liệu sản xuất không thuộc tư nhân mà do chính quyền quản lí. Và điều dễ hiểu là tất cả các quốc gia hồi đó xúm vào bao vây nhà nước Xô Viết. Để nhằm giải thoát vòng vây đó, Lí Ninh tung ra một chiêu tuyệt vời, cái gọi là Cách Mạng Vô Sản ở các nước thuộc địa, nhằm tạo bất ổn vào sân sau của các nước đế quốc thực dân, từ đó Quốc Tế Cộng Sản ra đời, trực tiếp cũng như gián tiếp chi phối cách mạng ở các nước thế giới thứ ba.
 Cả ba vùng: Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì đều có những đảng nhóm cộng sản hoạt động độc lập. Quốc Tế Cộng Sản giao nhiệm vụ cho Nguyễn Ái Quốc thống nhất 3 đảng lại thành Đảng Cộng Sản Đông Dương, với tổng bí thư đầu tiên là Trần Phú, trong dòng họ gia đình gọi là Phú “chuột”. Các sử gia nhầm lẫn lớn, coi Nguyễn Ái Quốc là người sáng lập ra đảng Cộng Sản Đông dương, ông Nguyễn lúc đó và mãi sau này vẫn chỉ là giao liên giữa Quốc Tế Cộng Sản và Đông Dương. Mọi thư từ gửi từ Đông Dương qua ông Nguyễn sau đó mới tới Quốc Tế Cộng Sản và ngược lại.
Với cách hoạt động như thế Đảng Cộng Sản Đông Dương có lợi thế là nhận được sự gíúp đỡ, thông tin chỉ đạo kịp thời từ Quốc Tế Cộng Sản nhưng có yếu điểm chết người là ai nắm được yết hầu thông tin thư từ đi lại sẽ khuynh đảo, lợi dụng, thậm chí sinh mạng các cán bộ hoạt động ở Đông Dương bị nguy hiểm nếu đường giao liên đó bị rò rỉ. Hồi đó đã có phàn nàn là Nguyễn Ái Quốc đã tự động sửa thư từ từ Đông Dương gửi cho Quốc Tế Cộng Sản.
 Và sau đó tất cả các đời tổng bí thư, Trần Phú, Ngô Gia Tự. Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập đều bị lộ và bị Pháp xử tử hình cùng các cán bộ cộng sản có uy tín, có ảnh hưởng tới đảng, nhất là những học viên có tương lai sáng giá được cử sang Quảng Châu học tập, về nước đều bị lộ. Và nghiễm nhiên, khi Nguyễn Ái Quốc, là cán bộ của Quốc Tế Cộng Sản về, thì trở thành lãnh đạo tuyệt đối, không ai cản trở về đường lối chính sách. Những cán bộ trung ương, ông Nguyễn đều chọn những học trò do chính mình đào tạo.
 Bản chất thực sự của đảng Cộng Sản bắt đầu biến dạng từ đây. Từ một đảng tiên phong của giai cấp nghèo, có phương pháp tổ chức và đấu tranh hiện đại dân chủ, Nguyễn Ái Quốc đã biến nó thành phong trào khởi nghĩa kiểu nông dân, trong đó lãnh tụ tuyệt đối tài giỏi thần bí có quyền ban phát chức vụ và đặc biệt toàn quyền cá nhân đưa ra những sách lược quan trọng không qua cọ sát tranh luận thường thấy ở các đảng chính trị khác, đẩy dân tộc vào những cuộc phiêu lưu đẫm máu không cần thiết. (Những cuộc phiêu lưu này tôi đã viết nhiều qua các diễn đàn, ví dụ như hoạt động của Việt Minh đã bỏ lỡ không liên lạc chặt chẽ với Stalin, hay tự ý giải tán đảng Cộng Sản Đông Dương gây hậu quả nghiêm trọng là một thời gian dài không có đồng minh đến khi Mao Trạch Đông thành công thì bắt buộc phải ngả theo là điều tất yếu)
 Khi đã thiết lập được chính quyền ở miền Bắc, chính quyền kiểu phong kiến lại càng lộ rõ. Trung ương tồn tại chục năm trời cũng chỉ từng đấy khuôn mặt, do Bác phân công. Thậm chí những người có tội như Nguyễn Chí Thanh, khi bị Pháp bắt đã khai ra bao nhiêu cơ sở, nhiều đồng chí bị tử hình mà vẫn được Bác phong làm đại tướng. Lê Duẩn khi bị Pháp bắt là ủy viên Trung Ương cùng với Nguyễn Thị Minh Khai nhưng chỉ bị 5 năm tù do “biết điều” còn người kia bị tử hình. Tất cả các đảng viên ở cơ sở chỉ có nhiệm vụ duy nhất là học tập và thực hiện những chính sách ở trên đưa xuống. Không tin Trung Ương thì tin ai, đó là câu nói cửa miệng.
 Cả một thời gian dài, cơ chế hoạt động đó rất hiệu quả do điều kiện chiến tranh, tức là cả miền Bắc nền kinh tế tập trung cộng với viện trợ từ khối XHCN nên Trung Ương có quyền chia cho ai, cắt của ai và độc quyền nhận viện trợ nên địa phương phải tuyệt đối tuân thủ.
 Đảng Cộng Sản thời hoàng kim là thời bao cấp đã hoạt động theo kiểu phong kiến trá hình thì vào thời rệu rã nó cũng sẽ đi theo con đường phong kiến: Nạn xứ quân lãnh chúa. Xưa kia có minh chúa ban phát chỉ bảo thì nay mỗi quan trong triều cũng phải liên kết với các lãnh chúa vùng xa tạo bè cánh và điều cốt lõi, thủ lợi. Lãnh chúa thời nay là các ủy viên Trung Ương phụ trách các tỉnh hay đứng đầu các ngành. Hơn ai hết họ hiểu rằng, cơ chế này đang kiếm ăn thuận lợi nhất và bảo họ bỏ phiếu dẹp người canh cửa cho họ kiếm ăn, là thủ tướng Dũng, thì không bao giờ.
 Thủ tướng Dũng xuất thân từ cán bộ tỉnh đội An Giang, nhưng lộ quan không phải bằng con đường kinh tế mà bằng thủ đoạn công an. Chỉ vì dùng mưu giả vờ bố trí cho dân làng theo kháng chiến quân của Mai Văn Hạnh, Trần Văn Bá rồi úp gọn mà được điều thẳng ra Hà Nội làm thứ trưởng Công An. Từ thống đốc ngân hàng lên làm phó thủ tướng phụ trách mảng công nghiệp và tài chính nhưng mảng đó luôn luôn be bét, do đó, khi đó khó mà có thể tranh nhau với Vũ Khoan lên làm thủ tướng, lúc đó Vũ Khoan đang là ngôi sao sáng trong cơn sốt WTO. Nhưng nhờ công an khui ra vụ Mai Văn Dậu, mảng thương mại do Vũ Khoan phụ trách. Mai Văn Dậu hồi đó người của tổng cục 2, nhưng tổng cục, đứng đầu là tướng Vịnh, đang mắc nạn vụ Sáu Sứ T4, không cứu được.
 Với quyền hạn của thủ tướng, Dũng đã nâng cấp một loạt các công an lên hàm trung tướng rồi bố trí về các tỉnh làm bí thư, và nghiễm nhiên cơ cấu thành ủy viên Trung Ưong, tạo tay chân cho mình.
 Do đó hội nghị Trung Ưong vừa rồi không những ở ngoài mà ngay cả đảng viên và các lão thành cách mạng cũng tưởng đảng muốn làm trong sạch đội ngũ của mình. Thực ra chỉ là động thái cân bằng lại quyền lực mà thủ tướng Dũng đã đi quá xa. Cho dù nay mai ông Dũng có từ chức hay không thì cũng phải nhắc nhở phe Dũng. Ai chứng kiến các buổi phê và tự phê của Bộ Chính Trị và Hội Nghị Trung Ương đều thấy rõ điều đó. Cho dù có nói mạnh hay đập giấy xuống bàn thì câu nói cuối cũng bỏ ngỏ để đối phương tự chỉnh. Hội Nghị kết luận không kỉ luật một ai và tổng bí thư tuyên bố thành công mĩ mãn ai ở ngoài cũng cho là giả dối nhưng thực sự là đúng như vậy, ông Dũng đã nhượng bộ còn hơn cả dự kiến ban đầu.
 Và ta có thể kiếm chứng sự hả hê mỹ mãn của hai ông Trọng và Sang. Sau hội nghị ông Sang hưng phấn vui vẻ khuyên người dân cứ mạnh dạn chống tham nhũng đừng sợ gì cả, có lẽ cái quyền và những quyền mà ông vừa giành lại được sau hội nghị Trung Ưong mà ông quên lòng tự trọng của người bình thường. Thử hỏi ông có trong tay nào thanh tra toà án, công an và cá nhân ông có cảnh vệ, ra đường có xe riêng không ai có thể gây gổ kiếm chuyện với ông mà ông chống tham nhũng không được mà còn khuyên dân lành tay không? Nhà ông có quán cà fê mà nó ghét thuê xã hội đen đến quấy phá, sập tiệm chết đói ông có dám chống tiêu cực không?

Không có nhận xét nào: