Bốn mươi năm qua, Trung Quốc đại lục, Đài Loan và Nhật Bản hai nước ba bên luôn tranh chấp chủ quyền về đảo Điếu Ngư/Senkaku, cho tới nay tranh chấp càng mạnh mẽ hơn. Cách đây không lâu, Nhật Bản thực hiện “quốc hữu hóa” đối với đảo Điếu Ngư/Senkaku, dẫn tới chính sách đồng loạt phản đối của Đại lục, thậm chí có lúc tình hình trở nên vô cùng căng thẳng, tuy vậy, tình hình đảo Điếu Ngư/Senkaku nay bỗng xuất hiện sự thay đổi kỳ diệu.
Đầu tiên, Thủ tướng Nhật Bản Yoshihiko Noda thừa nhận Tôkyô trước đó đã sai lầm khi đánh giá về những phản ứng có thể xảy ra của Trung Quốc. Quả thực là ban đầu Tôkyô không đánh giá được Bắc Kinh sẽ phản ứng mạnh mẽ như vậy.
Ngày 10/10, hãng tin Kyodo đưa tin Tôkyô đang nghiên cứu phương án thỏa hiệp, áp dụng rằng quan chức Nhật Bản “nhận thức thấy” phía Trung Quốc có đòi hỏi chủ quyền liên quan, cho rằng cách làm như vậy vừa có thể duy trì được lập trường kiên định của Nhật Bản, vừa có thể xem xét tới lập trường Trung Quốc yêu cầu Nhật Bản thừa nhận sự tồn tại của tranh chấp chủ quyền. Theo tin, phía Nhật Bản phán đoán Trung Quốc xây dựng mục tiêu ngắn hạn trong tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku là ép phía Nhật Bản thừa nhận “tồn tại tranh chấp chủ quyền”, tức phương pháp như vậy có tính khả thi.
Mỹ không muốn nhìn thấy chiến tranh Trung-Nhật
Động thái trên cho thấy phía Nhật Bản lộ ra kỳ vọng dùng biện pháp thỏa hiệp để làm dịu quan hệ căng thẳng giữa hai nước. Điều này hoàn toàn khác biệt so với lập trường cứng rắn của Nhật Bản trước ngày 11/9.
Tiếp đó, lập trường của Mỹ cũng có thay đổi. Ngày 28/9, trong cuộc gặp với ngoại trưởng Nhật Bản tại Niu Yoóc, Ngoại trưởng Mỹ Hillary đã nhắc nhở một cách bất thường (rằng) Nhật Bản cần thận trọng xử lý quan hệ ngoại giao với Trung Quốc; về sự căng thẳng trong quan hệ Trung-Nhật do tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku gây ra, bà Hillary chỉ rõ khi hành động, Nhật Bản cần “thận trọng”. Thứ trưởng Ngoại giao phụ trách vấn đề châu Á-Thái Bình Dương Mỹ Campbell cũng có thái độ tương tự khi thúc giục Nhật Bản cần hành động thận trọng.
Hiện nay, nền kinh tế Trung Quốc đang đứng ở vị trí thứ hai, hy vọng chiếm ngôi thứ nhất thế giới, nằm ở vị trí then chốt đang trỗi dậy. Thực lực kinh tế của Trung Quốc và Nhật Bản đứng vị trí thứ hai và thứ ba thế giới, khi hai bên phát sinh xung đột, va chạm, Mỹ đương nhiên vui mừng đứng ngoài quan sát. Tuy nhiên, Mỹ thực sự cũng không hy vọng xảy ra chiến tranh giữa hai nước này. Huống hồ, phương Tây đang đánh bài ngửa quân sự với Têhêran xung quanh vấn đề vũ khí hạt nhân của Iran, suy cho cùng thì tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku chỉ là vấn đề nhỏ, vấn đề hạt nhân của Iran mới là nguồn căn của cơn bạo bệnh. Quan sát kỹ thái độ của Mỹ trong tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku có thể thấy được sự thay đổi tinh tế trong lập trường của Mỹ.
Theo phán đoán của các nhà chiến lược Trung Quốc, mấy năm gần đây xung quanh Trung Quốc liên tục dậy sóng, hình thành cục diện nguy hiểm bốn bề, cơn sóng lớn bao trùm nằm ở quyết định chiến lược quay trở lại Châu Á của Mỹ và 65% lực lượng hải quân và không quân của Mỹ sẽ bố trí tập trung ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Mỹ quyết định quay trở lại châu Á, đương nhiên phải dựa vào sự phối hợp và ủng hộ của Nhật Bản, Hàn Quốc, ngược lại, cũng tất phải coi trọng lời hứa đảm bảo quốc phòng cho đồng minh của Mỹ.
Nhật Bản có chỗ dựa nên không còn e sợ, xuất kích bốn phía
Về chiến lược an ninh Đông Bắc Á, Mỹ và Nhật Bản không hẳn là cùng hội cùng thuyền, mà là “giống nhưng có khác”. Bắc Kinh cần chú ý đến điều này khi đưa ra quy hoạch chiến lược.
Để duy trì cục diện chính trị ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Mỹ cần chú ý đề phòng trước ảnh hưởng mang tính khu vực do sự tăng cường sức mạnh quốc gia của Trung Quốc tạo ra, Mỹ chỉ nên trông chờ vào hành động chi viện của Nhật Bản chủ yếu giới hạn ở vùng biên Đài Loan; còn Nhật Bản thì dựa vào những lời hứa của Mỹ nên đã nhân cơ hội ra tay “xử lý việc riêng”, hy vọng Mỹ đồng ý để Nhật Bản có hành động quân sự “ra bên ngoài”. Điều này chính là nguồn cơn của việc Nhật Bản đã xuất kích tứ phía” mấy năm gần đây với tinh thần cứng rắn chưa từng có trong tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku; ngoài ra còn tranh cướp đảo Dokdo/Takeshima với Hàn Quốc, mở rộng phạm vi tranh chấp lãnh thổ với Nga ở phía Bắc, kích động các tranh chấp ngoại giao.
Nếu quan hệ Trung-Nhật tiếp tục xấu đi, thậm chí xảy ra xung đột quân sự thì sẽ không tránh khỏi ảnh hưởng tới lợi ích an ninh quan trọng của Mỹ. Trước tiên, hòa bình và sự ổn định của khu vực châu Á-Thái Bình Dương sẽ chịu tác động lớn, thậm chí mở rộng phạm vi. Tiếp sau, dân chúng Trung-Nhật chịu tác động của lịch sử thù hận, dễ bùng phát xung đột, sau khi nảy sinh xung đột, do nhân tố trong nước (Trung Quốc) thiếu khả năng khống chế sự lan tràn của các hành động quân sự, rất có khả năng xung đột leo thang. Trong tình huống này, Mỹ tất sẽ bị cuốn vào và đó sẽ là thảm kịch mà các bên xung đột khó tránh khỏi.
Xung đột phá vỡ cục diện quân sự tại châu Á-Thái Bình Dương
Nói đến cục diện chính trị Đông Bắc Á, thì Nga không có hy vọng chấn hưng, trong tương lai gần, chưa thể nói tới sự thống nhất giữa hai miền. Triều Tiên sức ảnh hưởng của các nước trong khu vực này thì chỉ có Trung Quốc và Nhật Bản. Nói về lợi ích chiến lược của Mỹ, điều quan trọng hơn là, cho dù cuộc chiến Trung-Nhật diễn biến như thế nào thì đều sẽ tác động trực tiếp tới sự tồn tại quân sự của Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, từ đó làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới an ninh của nước Mỹ.
Trung-Nhật bùng nổ xung đột, sẽ có hai kết quả: Nếu Mỹ-Nhật hợp lực đánh thắng Trung Quốc thì Trung Quốc suy sụp, không chấn hưng được, Nhật Bản xưng bá ở Đông Á. Sự uy hiếp xung quanh Nhật Bản đã hết, lực lượng kìm kẹp bị mất đi, Nhật Bản tất sẽ đánh giá lại giá trị của Hiệp ước bảo đảm an ninh Mỹ-Nhật, không sớm thì muộn Nhật Bản cũng mượn cớ làm theo yêu cầu của người dân đế ép Mỹ rút quân khỏi Okinawa cũng như lãnh thổ Nhật Bản. Mỹ đã tiêu diệt được mối đe dọa từ một Trung Quốc đang trỗi dậy, song lại phải đối diện với mối đe dọa của một Nhật Bản đã từng trỗi dậy, đó cũng là “trăm sông về một biển”.
Nếu xảy ra chiến tranh, các bên tham chiến sẽ có khả năng dẫn đến nguy cơ chiến tranh hạt nhân, nếu không có thỏa hiệp, Trung Quốc tất sẽ “chơi sòng phẳng” với Mỹ và Nhật Bản. Nếu Mỹ tham chiến mà không chế ngự được Trung Quốc, Nhật Bản tất sẽ nhìn Trung Quốc với con mắt khác, sẽ tôn trọng quyền lợi và yêu cầu của Trung Quốc hơn. Như vậy, về trật tự an ninh thế giới, Hiệp ước đảm bảo an ninh Mỹ-Nhật trên thực tế đã có sự thay đổi về chất.
Từ đó có thể thấy chỉ cần Trung Quốc và Nhật Bản xảy ra xung đột quân sự ở mức độ cao, thì cho dù kết thúc như thế nào, cục diện quân sự ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương đều sẽ bị phá vỡ, từ đó trực tiếp ảnh hưởng tới tổng thể lợi ích an ninh của Mỹ ở khu vực này.
Mỹ không hy vọng các bên độc tôn xưng bá
Diễn biến của tranh chấp Trung-Nhật xem ra đều chịu sự hạn chế bởi vai trò của Mỹ trong ván cờ chiến lược khu vực Đông Bắc Á. Mỹ sẽ tăng cường sức ảnh hưởng, hạn chế mọi khả năng của Trung Quốc và Nhật Bản trong tình hình cục diện xấu đi. Nếu xung đột quân sự Trung-Nhật nổ ra Mỹ cũng sẽ đứng giữa kêu gọi điều đình, giúp đỡ bên chịu thiệt hại, ngăn chặn cục diện độc tôn xưng hùng của bất cứ nước nào ở Đông Bắc Á.
Nói tóm lại, Mỹ và Nhật Bản có lập trường tương đối khác nhau, ngay cả trong vấn đề quan trọng nhất là đối đầu với Trung Quốc. Nhật Bản hy vọng nổi lên ở Đông Á, do đó không thể tránh khỏi cần phải hành động để dìm ép Trung Quốc. Tuy nhiên; Mỹ lại chỉ muốn có một sự cân bằng giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Nói cách khác, lập trường của Mỹ chính là một nhân tố kiềm chế các bên trong ván cờ chiến lược Đông Bắc Á.
Tháng 9 năm nay, Ngoại trưởng Mỹ H.Clinton và Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta đã lần lượt đến thăm Bắc Kinh. Đáng chú ý, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ William Bums lại đến thăm Trung Quốc từ ngày 16- 17/10. Mục đích chuyến thăm Trung Quốc lần này của Thứ trưởng Ngoại giao W.Burns được dư luận bên ngoài phổ biến cho rằng có liên quan đến tình hình căng thẳng tranh chấp lãnh thổ tại Đông Bắc Á, nhưng vấn đề dường như không đơn giản như vậy. Vì bên cạnh “sứ mệnh hòa bình” mà W.Burns đem lại, Mỹ còn điều hai tàu sân bay được vũ trang toàn diện đến khu vực này. Rốt cuộc Mỹ mong muốn đóng một vai trò như thế nào trong tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku giữa hai nước Trung-Nhật?
Lịch trình chuyến thăm 3 nước Đông Bắc Á Trung-Nhật-Hàn lần này của W.Burns tiếp tục được thực hiện tuần tự như trong lịch sử, trạm thứ nhất đến Nhật Bản, trạm thứ hai đến Hàn Quốc và tiếp theo đến Trung Quốc. Mục tiêu chủ yếu của Mỹ là thực hiện quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương để mở rộng sức ảnh hưởng toàn diện của mình. Hơn nữa giữa Mỹ và 3 nước Đông Bắc Á vẫn tồn tại một số vấn đề cần thông qua kênh song phương để giải quyết, cho nên hoàn toàn không thể cho rằng mục đích chủ yếu trong chuyến thăm lần này của W.Burns là nhằm vào tranh chấp Trung-Nhật xung quanh đảo Điếu Ngư/Senkaku. Nhưng, lợi ích cốt lõi của Mỹ tại Đông Bắc Á là duy trì khu vực này hoà bình ổn định và thịnh vượng, điều này hoàn toàn không phải lời đường mật của chính khách Mỹ muốn dùng để lấy lòng các nước Đông Bắc Á, mà là nhu cầu lợi ích hiện thực của Mỹ. Suy cho cùng con đường cường thịnh cơ bản của Mỹ là dựa vào năng lực sản xuất hùng mạnh để hưởng lợi trong thương mại tự do toàn cầu, trong khi để làm được điều này bắt buộc phải có thị trường bên ngoài ổn định làm sự bảo đảm cơ bản. Do tranh chấp Trung-Nhật xung quanh đảo Điếu Ngư/Senkaku ngày càng quyết liệt, rủi ro xảy ra xung đột dân sự cục bộ, thậm chí là xung đột quân sự đều đang tăng lên, Mỹ tất nhiên mong muốn lợi dụng sức ảnh hưởng lớn mạnh của mình đối với cả với Trung Quốc và Nhật Bản để kiểm soát hữu hiệu quan hệ Trung-Nhật, điều chỉnh mối quan hệ này phù hợp với sự vận hành trong phạm vi lợi ích của bản thân nước Mỹ.
Đối với Mỹ, một quan hệ Trung-Nhật lý tưởng là duy trì sự ổn định cơ bản trong sự cọ sát nhỏ liên tiếp. Cọ sát quá quyết liệt, hoặc quan hệ Trung-Nhật quá mật thiết, đều không phù hợp với lợi ích của Mỹ, do vậy Mỹ thông qua mọi phương thức cả công khai lẫn bí mật để tiến hành can thiệp “mang tính uốn nắn”. Trước khi vấn đề đảo Điếu Ngư/Senkaku trở nên gay gắt, Mỹ cho rằng quan hệ Trung-Nhật vẫn chưa ở vào trạng thái cần khống chế, cho nên khi Ngoại trưởng Mỹ H.Clintơn thăm Trung Quốc và bày tỏ về vấn đề này vẫn còn tương đối thoải mái. Sau khi Nhật Bản quốc hữu hoá đảo Điếu Ngư/Senkaku và Trung Quốc đưa ra phản ứng quyết liệt ngoài dự đoán của cộng đồng quốc tế, Chính phủ Mỹ đã nhận thức đầy đủ được tính nghiêm trọng của vấn đề, bắt đầu chuyển từ thái độ “từ chối làm nhà hoà giải” mà W.Burns từng nói sang định vị vai trò là “trọng tài trung lập”. Bản thân Mỹ không có lợi ích hiện thực trong vấn đề đảo Điếu Ngư/Senkaku. Đối với Mỹ, đảo Điếu Ngư/Senkaku thuộc về ai đều không quan trọng, nhưng vì Trung Quốc – quốc gia quan trọng nhất châu Á và Nhật Bản – liên minh quan trọng nhất của Mỹ tại châu Á đều hết sức coi trọng thái độ của Mỹ trong vấn đề này, cho nên Mỹ không thể không từ bỏ lập trường úp mở, lấy lòng cả hai, thậm chí đứng ngoài cuộc trong vấn đề đảo Điếu Ngư, chuyển sang hy vọng thông qua sự can dự của mình để ngăn chặn tình hình tiếp tục xấu đi, đề phòng tranh chấp Trung- Nhật đi quá giới hạn tác động bất lợi đến lợi ích của Mỹ tại Đông Á.
Lập trường chính thức của Mỹ trong vấn đề đảo Điếu Ngư/Senkaku luôn thể hiện hai điều là không giữ lập trường trong vấn đề quy thuộc chủ quvền, nhưng khẳng định Hiệp ước Bảo đảm an ninh Nhật-Mỹ thích hợp cho trường hợp đảo Điếu Ngư. Có thể cho rằng, vế thứ nhất là Mỹ nói cho Trung Quốc nghe, vế thứ hai là nói cho Nhật Bản nghe. Với cách Mỹ giữ thái độ như vậy, Trung-Nhật đều có thể có được những gì mình muốn, đồng thời chấp nhận sự kiểm soát của Mỹ trong quan hệ Trung-Nhật. Nhưng vấn đề là Nhật Bản cho rằng vế thứ nhất mà Mỹ đưa ra là yếu ớt vì đảo Điếu Ngư/Senkaku nằm dưới sự kiểm soát thực tế của Nhật Bản và bản thân Mỹ cũng ủng hộ quyền kiểm soát thực tế của Nhật Bản, cho nên Nhật Bản không dám phá vỡ hiện trạng, thách thức giới hạn cuối cùng của Trung Quốc. Cũng có thể nói thái độ lập trường xem ra tự mâu thuẫn với chính mình của Mỹ đã đẩy tranh chấp đảo Điếu Ngư không ngừng leo thang và đây là biểu hiện thứ nhất thể hiện sự mâu thuẫn giữa lời nói và lợi ích của Mỹ.
Biểu hiện thứ hai là, để ngăn chặn tình trạng tranh chấp đảo Điểu Ngư tiếp tục leo thang, Mỹ đã phái biên đội tàu sân bay tiến hành uy hiếp Khách quan mà nói, điều này hoàn toàn không có nghĩa là Mỹ nhất định sẽ trực tiếp bắt tay với Nhật Bản để tấn công Trung Quốc sau khi Trung-Nhật xảy ra xung đột quân sự, sức mạnh của tàu sân bay chủ yếu được coi là một dạng công cụ thể hiện sức mạnh nhằm ngăn chặn tình hình leo thang và đưa ra phản ứng nhanh chóng trước khủng hoảng, bản thân nó hoàn toàn không có tính khuynh hướng rõ rệt. Nhưng do Mỹ luôn coi Trung Quốc là đối thủ tiềm tàng và coi Nhật Bản là đồng minh quan trọng, cho nên động thái này của Mỹ hiển nhiên bị Trung Quốc coi là khiêu khích, trong khi Nhật Bản lại coi là hành động trợ giúp. Thế là việc Mỹ phái lực lượng đến duy trì hoà bình nhanh chóng chuyển thành một nguyên nhân làm tăng rủi ro xung đột khu vực. Về điểm này e rằng Mỹ cũng hoàn toàn bất ngờ.
Hiện nay, tranh chấp Trung-Nhật xung quanh đảo Điếu Ngư/Senkaku đã diễn biến thành một dạng đối kháng sức mạnh song phương, mắc một chút sai lầm đều có thể dẫn đến xung đột mà hậu quả khó có thể tiên lượng. Hễ một bên súng bị cướp cò, tình hình có thể vượt ra ngoai phạm vi kiểm soát của Chính phủ hai nước. Vì vậy, hiện nay ngoài việc tích cực tiến hành hoà giải và giảm áp lực, Mỹ không còn sự lựa chọn nào khác. Một trong những mục đích chủ yếu trong chuyến thăm Đông Bắc Á lần này của W.Burns là nắm rõ tình hình và khuyên giải các bên. Sau khi hội đàm với các quan chức cấp cao Nhật Bản, W.Burns sẽ thông báo cho phía Trung Quốc về suy nghĩ của Chính phủ Nhật Bản trong vấn đề này và Chính phủ Mỹ hy vọng sẽ đạt được mục đích, đồng thời mong muốn tìm hiểu các biện pháp đối phó liên quan của phía Trung Quốc, để tiện cho việc đặt nền móng cho các cuộc điều đình trong giai đoạn tiếp theo. Trung-Nhật là hai đối tượng qua lại chủ yếu của Mỹ tại Đông Bắc Á, trong khi Trung-
Nhật lại nằm trong top 3 các nước có nền kinh tế lớn nhất toàn cầu, nên đối với Mỹ, xử lý tốt quan hệ 3 bên là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong tổng thể chiến lược châu Á-Thái Bình Dương của mình, Mỹ không thể không đầu tư nguồn lực vào khu vực này. Nhưng, chính sách “trung tâm và các vệ tinh” truyền thống của Mỹ tại Đông Bắc Á vốn đã tồn tại thiếu sót, nhất là sau khi Trung-Nhật hoàn thành hoán đổi địa vị tại châu Á, đối xử như thế nào với Trung Quốc và Nhật Bản trong thời kỳ mới sẽ trở thành vấn đề khó khăn đặt ra trước mắt Mỹ. Vai trò của Trung Quốc là toàn diện, trong khi Nhật Bản chỉ là một đối tác an ninh; ảnh hưởng của Trung Quốc khắp toàn cầu, trong khi giá trị của Nhật Bản chủ yếu chỉ hạn chế ở khu vực châu Á; nhưng bên cạnh đó, Trung Quốc lại là đối tượng ngăn chặn chủ yếu của Mỹ, trong khi lo ngại của Mỹ đối với Nhật Bản lại ít hơn nhiều. Bối cảnh đan xen phức tạp như vậy khiến cho Mỹ tỏ ra lực bất tòng tâm trong xử lý quan hệ Trung-Nhật, đến mức khó có thể định vị chính xác rốt cuộc Mỹ là thiết bị dẫn cháy hay thiết bị dập lửa trong tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Sự lúng túng của Mỹ đã hiện rõ, điều này cũng có nghĩa chuyến thăm Đông Bắc Á lần này của W.Bums lại một lần nữa không thành công.
*
* *
TTXVN (Hồng Công 28/10)
Trong bối cảnh căng thẳng giữa Trung Quốc và các nước Đông Bắc Á đang gia tăng mạnh trong thời gian gần đây, Mỹ đã xúc tiến chiến lược trởlại châu Á. Nhiều chuyên gia đã cho rằng chiến lược này của Mỹ là nhằm mục đích kiềm chế và bao vây Trung Quốc. Báo mạng Asia Times Online vừa đăng bài phân tích cho rằng Mỹ đang lôi kéo các đồng minh Đông Bắc Á, đặc biệt là Nhật Bản, vào cuộc đối đầu với Trung Quốc. Dưới đây là nội dung bài viết:
Richard Armitage – Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ dưới thời cựu Tổng thống George W Bush, là người đảm trách nhiệm vụ “nói với Nhật Bản phải làm gì”. Thủ tướng Nhật Bản khi đó, ông Junichiro Koizumi, đã từng hai lần xem xét việc tham gia “liên minh tự nguyện” tại Irắc và Armitage đã nói với một quan chức: “Đừng lùi bước”. Trước đó, Armitage đã tư vấn cho Nhật Bản “kéo quân ra khỏi bờ biển và chắc chắn rằng lá cờ của đất nước mặt trời mọc sẽ được trông thấy tại cuộc chiến ở Ápganixtan”
Giờ đây, trong một báo cáo cùng thực hiện với Joseph Nye gửi cho Trung tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế (CSIS), ông Armitage tuyên bố: “Nhật Bản nên đối mặt với các vấn đề mang tính lịch sử đang tiếp tục làm phức tạp hóa quan hệ với Hàn Quốc”. Báo cáo được công bố ngày 15/8, trong lúc căng thẳng giữa Nhật Bản và các nước láng giềng đang dâng cao. Người dân Hàn Quốc, Trung Quốc và các nước châu Á khác đã trải qua một thời kỳ kinh hoàng dưới thời phát xít Nhật, và mặc dù Tôkyô nhiều lần đưa ra lời xin lỗi cũng như bồi thưòng chiến tranh, nhiều người dân tại các nước đó vẫn cho rằng Nhật Bản đã không cư xử đủ để bù đắp những sai lầm trong lịch sử. Hàng triệu người Nhật Bản cũng đồng tình với quan điểm này.
Tuy nhiên, những sửa chữa sai lầm đã bị giảm giá trị với những chuyến thăm gây tranh cãi đến các hòn đảo tranh chấp chủ quyền, các cuộc biểu tình rầm rộ và những yêu cầu xin lỗi được cho là sẽ làm trỗi dậy tinh thần dân tộc chủ nghĩa của tất cả các bên.
Kiểu mẫu của chủ nghĩa thống trị
Không ai nói rằng vượt qua những khác biệt này là mong muốn của cả Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Tuy nhiên, điều đó sẽ giúp các nước hợp tác hòa bình và sử dụng toàn bộ nguồn lực cho việc giải quyết các vấn đề tại đây và ngay lúc này. Hầu hết trong số đó, sẽ bảo đảm cho công lý. Nhưng chính xác là tại sao Armitage và Nye lại hối thúc Nhật Bản làm như vậy?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải xem xét một trong số những khuyến nghị của họ đối với Nhật Bản. Những khuyến nghị này bao gồm việc thận trọng nối lại hoạt động điện hạt nhân, quyết định đơn phương của Nhật Bản gửi tàu phá mìn tới Vịnh Pécxích khi xuất hiện những tín hiệu đầu tiên ám chỉ đến ý định của Iran về việc muốn đóng cửa eo biển Hormuz, “tăng cường cộng tác với Mỹ tham gia giám sát tại Biển Đông và mở rộng phạm vi trách nhiệm của Nhật Bản, trong đó có sự phòng thủ của Nhật Bản và hoạt động phòng vệ cùng với Mỹ trước những biến cố tại khu vực.”
Điều cuối cùng cần sự giải thích: đó là việc xem xét đến phòng thủ tập thể (sử dụng lực lượng để bảo vệ một nước đồng minh). Điều 9 trong Hiến pháp Nhật Bản về vấn đề tham chiến đã cấm điều này. Việc ngăn cấm này là một trong những lý do mà Điều 9 vẫn được tôn trọng, biến nó thành một vấn đề lịch sử khác làm phức tạp các vấn đề đối với sự phô trương sức mạnh của người Mỹ. Báo cáo lưu ý rằng sự hỗ trợ của quân đội Mỹ đối với Nhật Bản sau trận động đất và sóng thần ngày 11/3/2011 đã hình thành một tiền lệ về sự hỗ trợ lẫn nhau với Lực lượng phòng vệ Nhật Bản. Điều này đã rõ ràng ngay từ đầu rằng cụm từ “bạn bè” được dùng để người dân Nhật Bản chấp nhận sự hiện diện của quân đội Mỹ dễ dàng hơn.
Trong những ngày này, người Mỹ đã sử dụng nhiều ngôn từ khéo léo và khẳng định sự tôn trọng của họ đối với các ý kiến trong xã hội khi đưa ra yêu cầu đối với Nhật Bản – ít nhất là về mặt công khai. Nhưng liệu đó có là vấn đề đối với các tác giả của báo cáo, khi mà những cuộc điều tra đều cho thấy sự ủng hộ đối với việc hạn chế điện hạt nhân. Có thể là không!
Michael Green, một cựu quan chức khác trong Chính quyền Bush, người tham gia viết báo cáo này, đã đánh giá việc phản đối điện hạt nhân tại Nhật Bản là chủ nghĩa NIMBY (chủ nghĩa lợi ích cục bộ địa phương) – chỉ vài tuần trước sự cố tại Fukushima. Tất nhiên, các tác giả khẳng định rằng tất cả là vì lợi ích của Nhật Bản, nhưng lạ thay, trong sự trình bày của họ, Nhật Bản hiếm khi có lợi ích xung đột với Mỹ. Thử hình dung những phản ứng mạnh từ Quốc hội Mỹ nếu một nhóm các cựu quan chức Nhật Bản đưa ra mệnh lệnh đối với Mỹ – khuyên nhủ họ, chẳng hạn như làm thế nào để giải thích về luật pháp của họ và sử dụng lực lượng vũ trang của họ.
Tuy nhiên, những báo cáo như vậy có thể vấp phải phản ứng từ phòng họp của giới chức Nhật Bản. Sự hình thành mang tính bảo thủ đã tồn tại từ lâu trong những điều cấm ở Điều 9. Bất chấp nhiều cuộc đối thoại về “quyền lực mềm,” khuynh hướng áp đảo là giao phó vấn đề an ninh cho lực lượng quân sự – đầu tiên, dưới “cái ô hạt nhân” Mỹ, nhưng tăng lên mức các lực lượng của Mỹ và Nhật Bản “diễn” chung trong một “buổi trình diễn,” dưới sự chỉ huy toàn bộ của Mỹ. Đương nhiên là như vậy!
Tất cả những điều này phù hợp với sự miêu tả của McCormack rằng Nhật Bản đóng vai trò là một “quốc gia đối tác” của Mỹ, với “một bên mang thân phận nô lệ, hạ mình và một bên coi thường bên còn lại.” Khi thủ tướng Nhật Bản Yukio Hatoyama nỗ lực hình thành Cộng đồng Đông Á và giảm bớt mạnh của các căn cứ quân sự Mỹ tại Okinawa, ông Yukio Hatoyama đã bị trừng phạt bằng một bức tường đá chống lại từ phía Chính quyền Obama và đã phải từ chức sau chưa đầy chín tháng cầm quyền. Kể từ đó, các thủ tướng Nhật Bản đã bám chặt hơn vào người Mỹ. Mặc dù ngày càng xuất hiện nhiều hơn những lời kêu gọi về việc xem xét lại liên minh này xét trên góc độ về một thế giới đa cực ngày càng tăng, báo cáo gửi CSIS nhằm mở rộng vai trò của Nhật Bản dưới quyền lãnh đạo của Mỹ.
Với các mối liên kết pháp lý và con người lâu nay giữa hai thể chế an ninh quốc gia của hai nước, điều này có thể thành công.
Kích hoạt những sự phản đối
Và trường hợp này được coi là một sự mâu thuẫn. Như những quan sát của Philip Seaton trong cuốn “Những Ký ức chiến tranh gây tranh cãi của Nhật Bản”, Mỹ đóng vai trò là một nước kích động các chính trị gia Nhật Bản đã hủy bỏ những lời xin lỗi trước đây về các hành động trong thời chiến tranh với những hành động và ngôn từ gây hấn:
Xét tổng thể, chính sách của Mỹ, kể từ sau vụ khủng bố 11/9 rõ ràng là hữu ích đối với phe bảo thủ Nhật Bản. Chính phủ Mỹ hỗ trợ cho Chính phủ Nhật Bản về bồi thường (bất chấp bị người dân Mỹ chỉ trích) nhằm loại bỏ các yếu tố theo chủ nghĩa hòa bình trong pháp luật của Nhật Bản không lên án việc thờ cúng tại ngôi đền Yasukuni, nơi thờ cúng tất cả những quân nhân Nhật bị phe Đồng Minh kết tội phạm tội ác chiến tranh và thúc đẩy mạnh mẽ việc tái vũ trang của Nhật Bản. Một số nhà nghiên cứu mới của Mỹ đã khuyến cáo Nhật Bản nên tự vũ trang bằng vũ khí hạt nhân để đối phó với nguy cơ từ Bắc Triều Tiên, một đề xuất kinh khủng đối với nhiều người Nhật Bản.
Tất cả các điều này được xem là “sai lầm khi giải quyết quá khứ” nếu Chính phủ Nhật Bản đơn phương theo đuổi, khi đó tội đồng lõa của Nhật Bản với đồng minh quan trọng nhất trong cái “sai lầm khi giải quyết quá khứ” trở nên rõ ràng.
Báo cáo của Armitage và Nye rõ ràng muốn khẳng định sự đồng lõa này. Tăng cường khả năng tấn công và phạm vi hoạt động của quân đội Nhật Bản là điều cuối cùng có thể xoa dịu những ký ức cay đắng của phát xít Nhật trong suốt thời kỳ 15 năm chiến tranh 1931-1945. Và muốn khuyến khích sự tin tưởng vào lực lượng quân sự thì hãy để những vết thương này có thể lành lại.
Do vậy, mục tiêu chính của báo cáo này mâu thuẫn với lời kêu gọi vượt qua các vấn đề lịch sử của nó. Nếu nhóm của Armitage có bất kỳ quan tâm thực sự nào tới việc sửa chữa sai lầm quá khứ trong chiến tranh, họ sẽ là nhừng con diều hâu xem xét những phàn nàn của người Trung Quốc cũng như của người Triều Tiên, mà không đề cập tới các nạn nhân của sự tàn ác của người Mỹ.
Thay vào đó, họ lại cho sự gây hấn ngày càng tăng của Trung Quốc là lý do chính cho sự hỗ trợ quân sự Mỹ-Nhật. “Các nhà quản lý đồng minh” tại Oasinhtơn và Tôkyô đã mượn cớ triệt để mâu thuẫn với Trung Quốc (và Bắc Triều Tiên) để vượt qua sự phản đối khi họ giới thiệu ngày càng nhiều hệ thống vũ khí tại Nhật Bản. Và một khuyến nghị mà báo cáo không đưa ra – trong dịp tưởng niệm 75 năm vụ thảm sát Nam Kinh – là Nhật Bản phải đối mặt với càng nhiều sự xúc phạm về những gì đã gây ra tại Trung Quốc.
Không, các chuyên gia của CSIS thích thú với việc tranh luận về lịch sử chỉ với một chừng mực rằng nó liên quan đến mục tiêu chiến lược của Mỹ: Nhật Bản và Hàn Quốc phải ngừng cãi vã, như vậy hai nước này mới có thể được Mỹ sử dụng hiệu quả hơn để chống lại Trung Quốc. Khi Hàn Quốc, trong thế đối mặt với sự phản đối của dư luận tập trung vào các tranh cãi lịch sử, vội vã ký kết một thỏa thuận chia sẻ tình báo với Nhật Bản, đó là một tin rất xấu tại Lầu Năm Góc. Chắc chắn, bản báo cáo hối thúc “nhanh chóng tiến tới chấm dứt” thỏa thuận này.
Trong một buổi thuyết trình báo cáo, Armitage nói một cách đầy thán phục về “nỗi nhục quốc gia” của Nhật Bản, dường như không để ý đến vai trò của Điều 9 trong việc xây dựng nó. Armitage và Nye viết rằng Nhật Bản có thể bỏ qua báo cáo của họ trừ phi muốn trở thành một “quốc gia bậc một – nghĩa là cùng cấp với nước Mỹ, với “sức mạnh kinh tế đáng kể, tiềm lực quân sự, tầm nhìn toàn cầu, và vai trò lãnh đạo chủ chốt đối với các vấn đề quốc tế . Điều đó có nghĩa nếu muốn trở thành một quốc gia mạnh mẽ thì hãy tiến về phía trước. Tuy nhiên, Armitage kỳ vọng về “một Nhật Bản mà trong đó người Nhật trẻ tuổi có thể mơ ước, chứ không chỉ tồn tại”. Để làm được cái điều “không chỉ là tồn tại” rõ ràng, đất nước Nhật Bản phải luôn trong tình trạng chiến tranh. Nói cách khác, Nhật Bản phải là một đế quốc, hay ít nhất là một nước chư hầu yêu thích.
Trong thời điểm khủng hoảng hiện nay, con đường phía trước đòi hỏi việc nhận ra lợi ích chung của tất cả người dân trong khu vực Đông Bắc Á – bất kể họ khác biệt như thế nào trong chính sách đối ngoại của Mỹ.
*
* *
TTXVN (Oasinhtơn 22/10)
Ngày 12/10, Tạp chí Chính sách đối ngoại đăng bài viết “Giải quyết vấn đề Okinawa - Bao nhiêu lính thủy đánh bộ của Mỹ vẫn cần hiện diện tại Nhật Bản” của tác giả Mike Mochizuki, giáo sư chính trị học và các vấn đề quốc tế tại Đại học George Oasinhtơn, Mỹ và Michael O’Hanlon giám đốc nghiên cứu chính sách đối ngoại tại Viện Brookings, Mỹ. Nội dung bài viết như sau:
Thời gian gần đây, lính thủy đánh bộ Mỹ bắt đầu triển khai máy bay quân sự V-22 Osprey tới Okinawa, Nhật Bản. Osprev bay giống như một chiếc máy bay cánh quạt nhưng có thể cất và hạ cánh như máy bay trực thăng. Nó bay nhanh hơn máy bay trực thăng và có sự linh hoạt chiến thuật hơn loại máy bay cánh quạt. Sự xuất hiện của loại máy bay này cũng khơi lại cuộc tranh luận dai dẳng giữa Nhật Bản và Mỹ về tương lai sự hiện diện của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ trên đảo Okinawa. Các ý kiến chỉ trích cho rằng Osprey không an toàn và yêu cầu đưa loại máy bav này về Mỹ. Trong khi dữ liệu về chuyến bay chưa phản ánh các cáo buộc cụ thể này, giới hoạch định chính sách ở Tôkyô và Oasinhtơn cần phải nhận ra rằng họ có một vấn đề thậm chí còn lớn hơn phải đối mặt, đó là tìm kiếm một cách thức mới ít khả năng xâm nhập hơn trong việc đặt căn cứ lính thủy đánh bộ trên hòn đảo nhỏ ở cực nam của quần đảo Nhật Bản.
Các câu hỏi về sự hiện diện của quân đội Mỹ trên đảo Okinawa đã gây nhiều tranh cãi trong suốt hai thập kỷ qua. Với khoảng 15,000 đến 20.000 quân có mặt ở đây, lính thủy đánh bộ Mỹ chiếm hơn 1/3 quân đội Mỹ có mặt tại Nhật Bản. Ngoài ra, có khoảng 10.000 lính trong lực lượng không quân đồn trú tại căn cứ không quân Kadena trên đảo Okinawa. Sự có mặt của lính thủy đánh bộ Mỹ khiến người dân địa phương phẫn nộ. Ngoài ra, Okinawa là một trong những tỉnh duy nhất ở Nhật Bản có sự gia tăng dân số thực sự, vì vậy, các quan chức địa phương muốn dành đất cho các mục đích khác.
Có rất nhiều lý do để bảo vệ sự hiện diện của lực lượng lính thủy đánh bộ, cũng như vị thế của Mỹ tại Nhật Bản, trước hết là phục vụ lợi ích liên minh chung tại một khu vực châu Á-Thái Bình Dương ổn định. Oasinhtơn đã cố gắng phối hợp với Tôkyô để di dời căn cứ. Đề nghị gần đây nhất là xây dựng một sân bay trên bờ vịnh Henoko cách xa về phía Bắc, tại khu vực ít đông dân hơn trên đảo Okinawa. Tuy nhiên, các chính trị gia cấp địa phương và trung ương của Nhật Bản đã nhiều lần chặn lại. Năm 2006, Mỹ và Nhật Bản đồng ý di dời gần một nửa lực lượng lính thủy đánh bộ từ Okinawa tới đảo Guam trong vài năm tới nhằm giảm áp lực cho Okinawa. Đáng chú ý, mặc dù có một số vụ tai nạn liên quan tới dòng máy bay Osprey, song thống kê hồi tháng 8/2012 cho thấy vòng đời của nó dài hơn so với loại máy bay trung bình của lính thủy đánh bộ. Theo Bộ tư lệnh lính thủy đánh bộ Mỹ, Osprey có tỷ lệ tai nạn nghiêm trọng thấp hơn 20% trong cùng số giờ bay so với máy bay trực thăng điển hình hoặc các loại máy bay khác của lính thủy đánh bộ. Mặc dù vậy, cần phải thảo luận công khai hai vụ tai nạn gần đây nhằm giảm bớt lo lắng trên đảo Okinawa.
Các chương trình di dời hiện bị mắc kẹt trong bãi lầy của nền chính trị Okinawa, tháng 6 vừa qua, liên minh cầm quyền của tỉnh trưởng Hirokazu Nakaima không giành đa số phiếu trong cuộc bầu cử hội đồng tỉnh. Thực tế này đặt ông Nakaima vào thế phòng ngự. Trước sự bất mãn của dân chúng về việc triển khai Osprey, tỉnh trưởng Okinawa có ít sự lựa chọn ngoài việc cứng rắn hơn trong việc giải quyết vấn đề căn cứ Futenma, không phê duyệt căn cứ bên bờ vịnh Henoko, cũng như chống lại việc triển khai Osprey.
Một vấn đề khác trong kế hoạch của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ tại khu vực là kế hoạch xây dựng sân bay kết hợp với việc di dời một phần quân tới đảo Guam. Đây không phải là lỗi của lực lượng lính thủy đánh bộ bởi họ đã cố gắng tìm kế hoạch tốt nhất cho mọi vấn đề. Ngoài những thách thức về chính trị, kế hoạch này phải đối mặt với thách thức về ngân sách khi nó cần khoảng 30 tỷ USD, được chia đều cho Tôkyô và Oasinhtơn, trong bối cảnh ngân sách của Lầu Năm Góc bị đe dọa cắt giảm thêm 10% nữa. Trên thực tế, khoản cắt giảm gần 10% ngân sách trước đó đã có hiệu lực từ lúc ký Đạo luật kiểm soát ngân sách 2011 của Mỹ.
Có một cách làm kinh tế, đơn giản và triển vọng, đó là cắt giảm biên chế của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ tại Nhật Bản. Nó sẽ tốn một khoản tiền nhất định, song có thể được tài trợ phần lớn bởi Nhật Bản (vì Mỹ giúp Nhật Bản giải quyết một vấn đề gai góc của địa phương). Bù lại, Mỹ sẽ tiết kiệm được khoảng 30 tỷ USD do không phải triển khai kế hoạch hiện tại. Futenma cuối cùng sẽ được đóng cửa. Từ nay đến đó sẽ cần thực hiện các điều khoản đầu tiên nhằm hạn chế việc sử dụng các sân bay trên đảo Okinawa của lính thủy đánh bộ Mỹ và Nhật Bản được quyền tiếp cận đầy
đủ các cơ sở lính thủy đánh bộ trong thời điểm khủng hoảng hoặc chiến tranh.
Cụ thể, Mỹ chỉ nên giữ lại từ 5.000 đến 8.000 lính lính thủy đánh bộ trên đảo Okinawa và đưa số còn lại đến các nơi như Camp Pendleton, California mà không phải là xây dựng căn cứ mới trên đảo Guam. Sau đóMỹ sẽ điều tàu trang bị vũ khí và vật tư cho vài nghìn lính lính thủy đánh bộ trong vùng biên Nhật Bản (để bổ sung cho năng lực tương tự hiện có tại các cảng ở Guam) nhằm cho phép lính thủy đánh bộ đã được tái triển khai ở Mỹ nhanh chóng trở lại Tây Thái Bình Dương khi xảy ra một cuộc khủng hoảng. Ngoài ra, lính thủy đánh bộ đóng tại Mỹ sẽ luân chuyển thường xuyên tới khu vực châu Á-Thái Bình Dương để diễn tập với bạn bè và các đồng minh, trong đó có Nhật Bản.
Về sân bay, Mỹ có thể thực hiện một số thay đổi, trong đó thực hiện kịp thời cam kết đóng cửa căn cứ Futenma và trả lại đất cho địa phương quản lý. Để thay thế một số chức năng của căn cứ Futenma, Mỹ cần xây dựng một sân bay trực thăng nhỏ bên trong một căn cứ Lính thủy đánh bộ hiện có ở nửa phía Bắc của đảo, nơi lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ đang thực hiện hầu hết các chương trình huấn luyện, đồng thời giảm thiểu tác động về mặt hậu cần.
Ngoài ra, theo thỏa thuận với Tôkyô và Chính quyền Okinawa, Mỹ sẽ tìm kiếm quyền triển khai một số chuyến bay của lính thủy đánh bộ tại căn cứ không quân Kadena nếu cần thiết, với điều kiện tổng số lần cất cánh và hạ cánh tại căn cứ đó không tăng lên. Để đảm bảo rằng căn cứ không quân Kadena không bận rộn hơn, Mỹ nên đưa một số máy bay của không quân tại đây tới những nơi khác như Misawa ở miền Bắc Nhật Bản hoặc thậm chí đảo Guam. Cuối cùng, Nhật Bản có thể xây dựng một đường bang thứ ba tại sân bay quốc tế Naha, phục vụ cho việc phát triển kinh tế của đảo trong thời bình và cung cấp khả năng sử dụng quân sự cho Mỹ và Nhật Bản khi xảy ra khủng hoảng hoặc chiến tranh.
Đây là kế hoạch toàn thắng. Nó giúp tiết kiệm ngân sách cho cả hai nước Mỹ và Nhật Bản; đồng thời thực sự giúp cải thiện khả năng phản ứng của Mỹ trước các cuộc khủng hoảng có thể xảy ra ở khu vực.
Mỹ và Nhật Bản đã bị sa lầy bởi vấn đề Okinawa quá lâu. Vừa qua, thời gian quý báu và tài năng của các nhà hoạch định chính sách đi theo hướng cố gắng giải quyết một vấn đề đã trở nên gần như không giải quyết được. Chúng ta cần xem xét vấn đề này một lần nữa, giải quyết nó, và cuối cùng vượt qua nó. Việc thắt chặt ngân sách quốc phòng Mỹ có thể là động lực cuối cùng cần thiết để thúc đẩy các nhà hoạch định chính sách tới suy nghĩ mới mẻ và hành động quyết đoán./TTXVN/ Basam
Đầu tiên, Thủ tướng Nhật Bản Yoshihiko Noda thừa nhận Tôkyô trước đó đã sai lầm khi đánh giá về những phản ứng có thể xảy ra của Trung Quốc. Quả thực là ban đầu Tôkyô không đánh giá được Bắc Kinh sẽ phản ứng mạnh mẽ như vậy.
Ngày 10/10, hãng tin Kyodo đưa tin Tôkyô đang nghiên cứu phương án thỏa hiệp, áp dụng rằng quan chức Nhật Bản “nhận thức thấy” phía Trung Quốc có đòi hỏi chủ quyền liên quan, cho rằng cách làm như vậy vừa có thể duy trì được lập trường kiên định của Nhật Bản, vừa có thể xem xét tới lập trường Trung Quốc yêu cầu Nhật Bản thừa nhận sự tồn tại của tranh chấp chủ quyền. Theo tin, phía Nhật Bản phán đoán Trung Quốc xây dựng mục tiêu ngắn hạn trong tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku là ép phía Nhật Bản thừa nhận “tồn tại tranh chấp chủ quyền”, tức phương pháp như vậy có tính khả thi.
Mỹ không muốn nhìn thấy chiến tranh Trung-Nhật
Động thái trên cho thấy phía Nhật Bản lộ ra kỳ vọng dùng biện pháp thỏa hiệp để làm dịu quan hệ căng thẳng giữa hai nước. Điều này hoàn toàn khác biệt so với lập trường cứng rắn của Nhật Bản trước ngày 11/9.
Tiếp đó, lập trường của Mỹ cũng có thay đổi. Ngày 28/9, trong cuộc gặp với ngoại trưởng Nhật Bản tại Niu Yoóc, Ngoại trưởng Mỹ Hillary đã nhắc nhở một cách bất thường (rằng) Nhật Bản cần thận trọng xử lý quan hệ ngoại giao với Trung Quốc; về sự căng thẳng trong quan hệ Trung-Nhật do tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku gây ra, bà Hillary chỉ rõ khi hành động, Nhật Bản cần “thận trọng”. Thứ trưởng Ngoại giao phụ trách vấn đề châu Á-Thái Bình Dương Mỹ Campbell cũng có thái độ tương tự khi thúc giục Nhật Bản cần hành động thận trọng.
Hiện nay, nền kinh tế Trung Quốc đang đứng ở vị trí thứ hai, hy vọng chiếm ngôi thứ nhất thế giới, nằm ở vị trí then chốt đang trỗi dậy. Thực lực kinh tế của Trung Quốc và Nhật Bản đứng vị trí thứ hai và thứ ba thế giới, khi hai bên phát sinh xung đột, va chạm, Mỹ đương nhiên vui mừng đứng ngoài quan sát. Tuy nhiên, Mỹ thực sự cũng không hy vọng xảy ra chiến tranh giữa hai nước này. Huống hồ, phương Tây đang đánh bài ngửa quân sự với Têhêran xung quanh vấn đề vũ khí hạt nhân của Iran, suy cho cùng thì tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku chỉ là vấn đề nhỏ, vấn đề hạt nhân của Iran mới là nguồn căn của cơn bạo bệnh. Quan sát kỹ thái độ của Mỹ trong tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku có thể thấy được sự thay đổi tinh tế trong lập trường của Mỹ.
Theo phán đoán của các nhà chiến lược Trung Quốc, mấy năm gần đây xung quanh Trung Quốc liên tục dậy sóng, hình thành cục diện nguy hiểm bốn bề, cơn sóng lớn bao trùm nằm ở quyết định chiến lược quay trở lại Châu Á của Mỹ và 65% lực lượng hải quân và không quân của Mỹ sẽ bố trí tập trung ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Mỹ quyết định quay trở lại châu Á, đương nhiên phải dựa vào sự phối hợp và ủng hộ của Nhật Bản, Hàn Quốc, ngược lại, cũng tất phải coi trọng lời hứa đảm bảo quốc phòng cho đồng minh của Mỹ.
Nhật Bản có chỗ dựa nên không còn e sợ, xuất kích bốn phía
Về chiến lược an ninh Đông Bắc Á, Mỹ và Nhật Bản không hẳn là cùng hội cùng thuyền, mà là “giống nhưng có khác”. Bắc Kinh cần chú ý đến điều này khi đưa ra quy hoạch chiến lược.
Để duy trì cục diện chính trị ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, Mỹ cần chú ý đề phòng trước ảnh hưởng mang tính khu vực do sự tăng cường sức mạnh quốc gia của Trung Quốc tạo ra, Mỹ chỉ nên trông chờ vào hành động chi viện của Nhật Bản chủ yếu giới hạn ở vùng biên Đài Loan; còn Nhật Bản thì dựa vào những lời hứa của Mỹ nên đã nhân cơ hội ra tay “xử lý việc riêng”, hy vọng Mỹ đồng ý để Nhật Bản có hành động quân sự “ra bên ngoài”. Điều này chính là nguồn cơn của việc Nhật Bản đã xuất kích tứ phía” mấy năm gần đây với tinh thần cứng rắn chưa từng có trong tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku; ngoài ra còn tranh cướp đảo Dokdo/Takeshima với Hàn Quốc, mở rộng phạm vi tranh chấp lãnh thổ với Nga ở phía Bắc, kích động các tranh chấp ngoại giao.
Nếu quan hệ Trung-Nhật tiếp tục xấu đi, thậm chí xảy ra xung đột quân sự thì sẽ không tránh khỏi ảnh hưởng tới lợi ích an ninh quan trọng của Mỹ. Trước tiên, hòa bình và sự ổn định của khu vực châu Á-Thái Bình Dương sẽ chịu tác động lớn, thậm chí mở rộng phạm vi. Tiếp sau, dân chúng Trung-Nhật chịu tác động của lịch sử thù hận, dễ bùng phát xung đột, sau khi nảy sinh xung đột, do nhân tố trong nước (Trung Quốc) thiếu khả năng khống chế sự lan tràn của các hành động quân sự, rất có khả năng xung đột leo thang. Trong tình huống này, Mỹ tất sẽ bị cuốn vào và đó sẽ là thảm kịch mà các bên xung đột khó tránh khỏi.
Xung đột phá vỡ cục diện quân sự tại châu Á-Thái Bình Dương
Nói đến cục diện chính trị Đông Bắc Á, thì Nga không có hy vọng chấn hưng, trong tương lai gần, chưa thể nói tới sự thống nhất giữa hai miền. Triều Tiên sức ảnh hưởng của các nước trong khu vực này thì chỉ có Trung Quốc và Nhật Bản. Nói về lợi ích chiến lược của Mỹ, điều quan trọng hơn là, cho dù cuộc chiến Trung-Nhật diễn biến như thế nào thì đều sẽ tác động trực tiếp tới sự tồn tại quân sự của Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, từ đó làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới an ninh của nước Mỹ.
Trung-Nhật bùng nổ xung đột, sẽ có hai kết quả: Nếu Mỹ-Nhật hợp lực đánh thắng Trung Quốc thì Trung Quốc suy sụp, không chấn hưng được, Nhật Bản xưng bá ở Đông Á. Sự uy hiếp xung quanh Nhật Bản đã hết, lực lượng kìm kẹp bị mất đi, Nhật Bản tất sẽ đánh giá lại giá trị của Hiệp ước bảo đảm an ninh Mỹ-Nhật, không sớm thì muộn Nhật Bản cũng mượn cớ làm theo yêu cầu của người dân đế ép Mỹ rút quân khỏi Okinawa cũng như lãnh thổ Nhật Bản. Mỹ đã tiêu diệt được mối đe dọa từ một Trung Quốc đang trỗi dậy, song lại phải đối diện với mối đe dọa của một Nhật Bản đã từng trỗi dậy, đó cũng là “trăm sông về một biển”.
Nếu xảy ra chiến tranh, các bên tham chiến sẽ có khả năng dẫn đến nguy cơ chiến tranh hạt nhân, nếu không có thỏa hiệp, Trung Quốc tất sẽ “chơi sòng phẳng” với Mỹ và Nhật Bản. Nếu Mỹ tham chiến mà không chế ngự được Trung Quốc, Nhật Bản tất sẽ nhìn Trung Quốc với con mắt khác, sẽ tôn trọng quyền lợi và yêu cầu của Trung Quốc hơn. Như vậy, về trật tự an ninh thế giới, Hiệp ước đảm bảo an ninh Mỹ-Nhật trên thực tế đã có sự thay đổi về chất.
Từ đó có thể thấy chỉ cần Trung Quốc và Nhật Bản xảy ra xung đột quân sự ở mức độ cao, thì cho dù kết thúc như thế nào, cục diện quân sự ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương đều sẽ bị phá vỡ, từ đó trực tiếp ảnh hưởng tới tổng thể lợi ích an ninh của Mỹ ở khu vực này.
Mỹ không hy vọng các bên độc tôn xưng bá
Diễn biến của tranh chấp Trung-Nhật xem ra đều chịu sự hạn chế bởi vai trò của Mỹ trong ván cờ chiến lược khu vực Đông Bắc Á. Mỹ sẽ tăng cường sức ảnh hưởng, hạn chế mọi khả năng của Trung Quốc và Nhật Bản trong tình hình cục diện xấu đi. Nếu xung đột quân sự Trung-Nhật nổ ra Mỹ cũng sẽ đứng giữa kêu gọi điều đình, giúp đỡ bên chịu thiệt hại, ngăn chặn cục diện độc tôn xưng hùng của bất cứ nước nào ở Đông Bắc Á.
Nói tóm lại, Mỹ và Nhật Bản có lập trường tương đối khác nhau, ngay cả trong vấn đề quan trọng nhất là đối đầu với Trung Quốc. Nhật Bản hy vọng nổi lên ở Đông Á, do đó không thể tránh khỏi cần phải hành động để dìm ép Trung Quốc. Tuy nhiên; Mỹ lại chỉ muốn có một sự cân bằng giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Nói cách khác, lập trường của Mỹ chính là một nhân tố kiềm chế các bên trong ván cờ chiến lược Đông Bắc Á.
*
* *
TTXVN (Bắc Kinh 25/10) Ngày 17/10, mạng “Quan điểm Trung Quốc” đăng bài viết của chuyên gia Lưu Vệ Đông về nhân tố Mỹ trong tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku, nội dung như sau:Tháng 9 năm nay, Ngoại trưởng Mỹ H.Clinton và Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta đã lần lượt đến thăm Bắc Kinh. Đáng chú ý, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ William Bums lại đến thăm Trung Quốc từ ngày 16- 17/10. Mục đích chuyến thăm Trung Quốc lần này của Thứ trưởng Ngoại giao W.Burns được dư luận bên ngoài phổ biến cho rằng có liên quan đến tình hình căng thẳng tranh chấp lãnh thổ tại Đông Bắc Á, nhưng vấn đề dường như không đơn giản như vậy. Vì bên cạnh “sứ mệnh hòa bình” mà W.Burns đem lại, Mỹ còn điều hai tàu sân bay được vũ trang toàn diện đến khu vực này. Rốt cuộc Mỹ mong muốn đóng một vai trò như thế nào trong tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku giữa hai nước Trung-Nhật?
Lịch trình chuyến thăm 3 nước Đông Bắc Á Trung-Nhật-Hàn lần này của W.Burns tiếp tục được thực hiện tuần tự như trong lịch sử, trạm thứ nhất đến Nhật Bản, trạm thứ hai đến Hàn Quốc và tiếp theo đến Trung Quốc. Mục tiêu chủ yếu của Mỹ là thực hiện quay trở lại châu Á-Thái Bình Dương để mở rộng sức ảnh hưởng toàn diện của mình. Hơn nữa giữa Mỹ và 3 nước Đông Bắc Á vẫn tồn tại một số vấn đề cần thông qua kênh song phương để giải quyết, cho nên hoàn toàn không thể cho rằng mục đích chủ yếu trong chuyến thăm lần này của W.Burns là nhằm vào tranh chấp Trung-Nhật xung quanh đảo Điếu Ngư/Senkaku. Nhưng, lợi ích cốt lõi của Mỹ tại Đông Bắc Á là duy trì khu vực này hoà bình ổn định và thịnh vượng, điều này hoàn toàn không phải lời đường mật của chính khách Mỹ muốn dùng để lấy lòng các nước Đông Bắc Á, mà là nhu cầu lợi ích hiện thực của Mỹ. Suy cho cùng con đường cường thịnh cơ bản của Mỹ là dựa vào năng lực sản xuất hùng mạnh để hưởng lợi trong thương mại tự do toàn cầu, trong khi để làm được điều này bắt buộc phải có thị trường bên ngoài ổn định làm sự bảo đảm cơ bản. Do tranh chấp Trung-Nhật xung quanh đảo Điếu Ngư/Senkaku ngày càng quyết liệt, rủi ro xảy ra xung đột dân sự cục bộ, thậm chí là xung đột quân sự đều đang tăng lên, Mỹ tất nhiên mong muốn lợi dụng sức ảnh hưởng lớn mạnh của mình đối với cả với Trung Quốc và Nhật Bản để kiểm soát hữu hiệu quan hệ Trung-Nhật, điều chỉnh mối quan hệ này phù hợp với sự vận hành trong phạm vi lợi ích của bản thân nước Mỹ.
Đối với Mỹ, một quan hệ Trung-Nhật lý tưởng là duy trì sự ổn định cơ bản trong sự cọ sát nhỏ liên tiếp. Cọ sát quá quyết liệt, hoặc quan hệ Trung-Nhật quá mật thiết, đều không phù hợp với lợi ích của Mỹ, do vậy Mỹ thông qua mọi phương thức cả công khai lẫn bí mật để tiến hành can thiệp “mang tính uốn nắn”. Trước khi vấn đề đảo Điếu Ngư/Senkaku trở nên gay gắt, Mỹ cho rằng quan hệ Trung-Nhật vẫn chưa ở vào trạng thái cần khống chế, cho nên khi Ngoại trưởng Mỹ H.Clintơn thăm Trung Quốc và bày tỏ về vấn đề này vẫn còn tương đối thoải mái. Sau khi Nhật Bản quốc hữu hoá đảo Điếu Ngư/Senkaku và Trung Quốc đưa ra phản ứng quyết liệt ngoài dự đoán của cộng đồng quốc tế, Chính phủ Mỹ đã nhận thức đầy đủ được tính nghiêm trọng của vấn đề, bắt đầu chuyển từ thái độ “từ chối làm nhà hoà giải” mà W.Burns từng nói sang định vị vai trò là “trọng tài trung lập”. Bản thân Mỹ không có lợi ích hiện thực trong vấn đề đảo Điếu Ngư/Senkaku. Đối với Mỹ, đảo Điếu Ngư/Senkaku thuộc về ai đều không quan trọng, nhưng vì Trung Quốc – quốc gia quan trọng nhất châu Á và Nhật Bản – liên minh quan trọng nhất của Mỹ tại châu Á đều hết sức coi trọng thái độ của Mỹ trong vấn đề này, cho nên Mỹ không thể không từ bỏ lập trường úp mở, lấy lòng cả hai, thậm chí đứng ngoài cuộc trong vấn đề đảo Điếu Ngư, chuyển sang hy vọng thông qua sự can dự của mình để ngăn chặn tình hình tiếp tục xấu đi, đề phòng tranh chấp Trung- Nhật đi quá giới hạn tác động bất lợi đến lợi ích của Mỹ tại Đông Á.
Lập trường chính thức của Mỹ trong vấn đề đảo Điếu Ngư/Senkaku luôn thể hiện hai điều là không giữ lập trường trong vấn đề quy thuộc chủ quvền, nhưng khẳng định Hiệp ước Bảo đảm an ninh Nhật-Mỹ thích hợp cho trường hợp đảo Điếu Ngư. Có thể cho rằng, vế thứ nhất là Mỹ nói cho Trung Quốc nghe, vế thứ hai là nói cho Nhật Bản nghe. Với cách Mỹ giữ thái độ như vậy, Trung-Nhật đều có thể có được những gì mình muốn, đồng thời chấp nhận sự kiểm soát của Mỹ trong quan hệ Trung-Nhật. Nhưng vấn đề là Nhật Bản cho rằng vế thứ nhất mà Mỹ đưa ra là yếu ớt vì đảo Điếu Ngư/Senkaku nằm dưới sự kiểm soát thực tế của Nhật Bản và bản thân Mỹ cũng ủng hộ quyền kiểm soát thực tế của Nhật Bản, cho nên Nhật Bản không dám phá vỡ hiện trạng, thách thức giới hạn cuối cùng của Trung Quốc. Cũng có thể nói thái độ lập trường xem ra tự mâu thuẫn với chính mình của Mỹ đã đẩy tranh chấp đảo Điếu Ngư không ngừng leo thang và đây là biểu hiện thứ nhất thể hiện sự mâu thuẫn giữa lời nói và lợi ích của Mỹ.
Biểu hiện thứ hai là, để ngăn chặn tình trạng tranh chấp đảo Điểu Ngư tiếp tục leo thang, Mỹ đã phái biên đội tàu sân bay tiến hành uy hiếp Khách quan mà nói, điều này hoàn toàn không có nghĩa là Mỹ nhất định sẽ trực tiếp bắt tay với Nhật Bản để tấn công Trung Quốc sau khi Trung-Nhật xảy ra xung đột quân sự, sức mạnh của tàu sân bay chủ yếu được coi là một dạng công cụ thể hiện sức mạnh nhằm ngăn chặn tình hình leo thang và đưa ra phản ứng nhanh chóng trước khủng hoảng, bản thân nó hoàn toàn không có tính khuynh hướng rõ rệt. Nhưng do Mỹ luôn coi Trung Quốc là đối thủ tiềm tàng và coi Nhật Bản là đồng minh quan trọng, cho nên động thái này của Mỹ hiển nhiên bị Trung Quốc coi là khiêu khích, trong khi Nhật Bản lại coi là hành động trợ giúp. Thế là việc Mỹ phái lực lượng đến duy trì hoà bình nhanh chóng chuyển thành một nguyên nhân làm tăng rủi ro xung đột khu vực. Về điểm này e rằng Mỹ cũng hoàn toàn bất ngờ.
Hiện nay, tranh chấp Trung-Nhật xung quanh đảo Điếu Ngư/Senkaku đã diễn biến thành một dạng đối kháng sức mạnh song phương, mắc một chút sai lầm đều có thể dẫn đến xung đột mà hậu quả khó có thể tiên lượng. Hễ một bên súng bị cướp cò, tình hình có thể vượt ra ngoai phạm vi kiểm soát của Chính phủ hai nước. Vì vậy, hiện nay ngoài việc tích cực tiến hành hoà giải và giảm áp lực, Mỹ không còn sự lựa chọn nào khác. Một trong những mục đích chủ yếu trong chuyến thăm Đông Bắc Á lần này của W.Burns là nắm rõ tình hình và khuyên giải các bên. Sau khi hội đàm với các quan chức cấp cao Nhật Bản, W.Burns sẽ thông báo cho phía Trung Quốc về suy nghĩ của Chính phủ Nhật Bản trong vấn đề này và Chính phủ Mỹ hy vọng sẽ đạt được mục đích, đồng thời mong muốn tìm hiểu các biện pháp đối phó liên quan của phía Trung Quốc, để tiện cho việc đặt nền móng cho các cuộc điều đình trong giai đoạn tiếp theo. Trung-Nhật là hai đối tượng qua lại chủ yếu của Mỹ tại Đông Bắc Á, trong khi Trung-
Nhật lại nằm trong top 3 các nước có nền kinh tế lớn nhất toàn cầu, nên đối với Mỹ, xử lý tốt quan hệ 3 bên là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong tổng thể chiến lược châu Á-Thái Bình Dương của mình, Mỹ không thể không đầu tư nguồn lực vào khu vực này. Nhưng, chính sách “trung tâm và các vệ tinh” truyền thống của Mỹ tại Đông Bắc Á vốn đã tồn tại thiếu sót, nhất là sau khi Trung-Nhật hoàn thành hoán đổi địa vị tại châu Á, đối xử như thế nào với Trung Quốc và Nhật Bản trong thời kỳ mới sẽ trở thành vấn đề khó khăn đặt ra trước mắt Mỹ. Vai trò của Trung Quốc là toàn diện, trong khi Nhật Bản chỉ là một đối tác an ninh; ảnh hưởng của Trung Quốc khắp toàn cầu, trong khi giá trị của Nhật Bản chủ yếu chỉ hạn chế ở khu vực châu Á; nhưng bên cạnh đó, Trung Quốc lại là đối tượng ngăn chặn chủ yếu của Mỹ, trong khi lo ngại của Mỹ đối với Nhật Bản lại ít hơn nhiều. Bối cảnh đan xen phức tạp như vậy khiến cho Mỹ tỏ ra lực bất tòng tâm trong xử lý quan hệ Trung-Nhật, đến mức khó có thể định vị chính xác rốt cuộc Mỹ là thiết bị dẫn cháy hay thiết bị dập lửa trong tranh chấp đảo Điếu Ngư/Senkaku giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Sự lúng túng của Mỹ đã hiện rõ, điều này cũng có nghĩa chuyến thăm Đông Bắc Á lần này của W.Bums lại một lần nữa không thành công.
*
* *
TTXVN (Hồng Công 28/10)
Trong bối cảnh căng thẳng giữa Trung Quốc và các nước Đông Bắc Á đang gia tăng mạnh trong thời gian gần đây, Mỹ đã xúc tiến chiến lược trởlại châu Á. Nhiều chuyên gia đã cho rằng chiến lược này của Mỹ là nhằm mục đích kiềm chế và bao vây Trung Quốc. Báo mạng Asia Times Online vừa đăng bài phân tích cho rằng Mỹ đang lôi kéo các đồng minh Đông Bắc Á, đặc biệt là Nhật Bản, vào cuộc đối đầu với Trung Quốc. Dưới đây là nội dung bài viết:
Richard Armitage – Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ dưới thời cựu Tổng thống George W Bush, là người đảm trách nhiệm vụ “nói với Nhật Bản phải làm gì”. Thủ tướng Nhật Bản khi đó, ông Junichiro Koizumi, đã từng hai lần xem xét việc tham gia “liên minh tự nguyện” tại Irắc và Armitage đã nói với một quan chức: “Đừng lùi bước”. Trước đó, Armitage đã tư vấn cho Nhật Bản “kéo quân ra khỏi bờ biển và chắc chắn rằng lá cờ của đất nước mặt trời mọc sẽ được trông thấy tại cuộc chiến ở Ápganixtan”
Giờ đây, trong một báo cáo cùng thực hiện với Joseph Nye gửi cho Trung tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế (CSIS), ông Armitage tuyên bố: “Nhật Bản nên đối mặt với các vấn đề mang tính lịch sử đang tiếp tục làm phức tạp hóa quan hệ với Hàn Quốc”. Báo cáo được công bố ngày 15/8, trong lúc căng thẳng giữa Nhật Bản và các nước láng giềng đang dâng cao. Người dân Hàn Quốc, Trung Quốc và các nước châu Á khác đã trải qua một thời kỳ kinh hoàng dưới thời phát xít Nhật, và mặc dù Tôkyô nhiều lần đưa ra lời xin lỗi cũng như bồi thưòng chiến tranh, nhiều người dân tại các nước đó vẫn cho rằng Nhật Bản đã không cư xử đủ để bù đắp những sai lầm trong lịch sử. Hàng triệu người Nhật Bản cũng đồng tình với quan điểm này.
Tuy nhiên, những sửa chữa sai lầm đã bị giảm giá trị với những chuyến thăm gây tranh cãi đến các hòn đảo tranh chấp chủ quyền, các cuộc biểu tình rầm rộ và những yêu cầu xin lỗi được cho là sẽ làm trỗi dậy tinh thần dân tộc chủ nghĩa của tất cả các bên.
Kiểu mẫu của chủ nghĩa thống trị
Không ai nói rằng vượt qua những khác biệt này là mong muốn của cả Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Tuy nhiên, điều đó sẽ giúp các nước hợp tác hòa bình và sử dụng toàn bộ nguồn lực cho việc giải quyết các vấn đề tại đây và ngay lúc này. Hầu hết trong số đó, sẽ bảo đảm cho công lý. Nhưng chính xác là tại sao Armitage và Nye lại hối thúc Nhật Bản làm như vậy?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải xem xét một trong số những khuyến nghị của họ đối với Nhật Bản. Những khuyến nghị này bao gồm việc thận trọng nối lại hoạt động điện hạt nhân, quyết định đơn phương của Nhật Bản gửi tàu phá mìn tới Vịnh Pécxích khi xuất hiện những tín hiệu đầu tiên ám chỉ đến ý định của Iran về việc muốn đóng cửa eo biển Hormuz, “tăng cường cộng tác với Mỹ tham gia giám sát tại Biển Đông và mở rộng phạm vi trách nhiệm của Nhật Bản, trong đó có sự phòng thủ của Nhật Bản và hoạt động phòng vệ cùng với Mỹ trước những biến cố tại khu vực.”
Điều cuối cùng cần sự giải thích: đó là việc xem xét đến phòng thủ tập thể (sử dụng lực lượng để bảo vệ một nước đồng minh). Điều 9 trong Hiến pháp Nhật Bản về vấn đề tham chiến đã cấm điều này. Việc ngăn cấm này là một trong những lý do mà Điều 9 vẫn được tôn trọng, biến nó thành một vấn đề lịch sử khác làm phức tạp các vấn đề đối với sự phô trương sức mạnh của người Mỹ. Báo cáo lưu ý rằng sự hỗ trợ của quân đội Mỹ đối với Nhật Bản sau trận động đất và sóng thần ngày 11/3/2011 đã hình thành một tiền lệ về sự hỗ trợ lẫn nhau với Lực lượng phòng vệ Nhật Bản. Điều này đã rõ ràng ngay từ đầu rằng cụm từ “bạn bè” được dùng để người dân Nhật Bản chấp nhận sự hiện diện của quân đội Mỹ dễ dàng hơn.
Trong những ngày này, người Mỹ đã sử dụng nhiều ngôn từ khéo léo và khẳng định sự tôn trọng của họ đối với các ý kiến trong xã hội khi đưa ra yêu cầu đối với Nhật Bản – ít nhất là về mặt công khai. Nhưng liệu đó có là vấn đề đối với các tác giả của báo cáo, khi mà những cuộc điều tra đều cho thấy sự ủng hộ đối với việc hạn chế điện hạt nhân. Có thể là không!
Michael Green, một cựu quan chức khác trong Chính quyền Bush, người tham gia viết báo cáo này, đã đánh giá việc phản đối điện hạt nhân tại Nhật Bản là chủ nghĩa NIMBY (chủ nghĩa lợi ích cục bộ địa phương) – chỉ vài tuần trước sự cố tại Fukushima. Tất nhiên, các tác giả khẳng định rằng tất cả là vì lợi ích của Nhật Bản, nhưng lạ thay, trong sự trình bày của họ, Nhật Bản hiếm khi có lợi ích xung đột với Mỹ. Thử hình dung những phản ứng mạnh từ Quốc hội Mỹ nếu một nhóm các cựu quan chức Nhật Bản đưa ra mệnh lệnh đối với Mỹ – khuyên nhủ họ, chẳng hạn như làm thế nào để giải thích về luật pháp của họ và sử dụng lực lượng vũ trang của họ.
Tuy nhiên, những báo cáo như vậy có thể vấp phải phản ứng từ phòng họp của giới chức Nhật Bản. Sự hình thành mang tính bảo thủ đã tồn tại từ lâu trong những điều cấm ở Điều 9. Bất chấp nhiều cuộc đối thoại về “quyền lực mềm,” khuynh hướng áp đảo là giao phó vấn đề an ninh cho lực lượng quân sự – đầu tiên, dưới “cái ô hạt nhân” Mỹ, nhưng tăng lên mức các lực lượng của Mỹ và Nhật Bản “diễn” chung trong một “buổi trình diễn,” dưới sự chỉ huy toàn bộ của Mỹ. Đương nhiên là như vậy!
Tất cả những điều này phù hợp với sự miêu tả của McCormack rằng Nhật Bản đóng vai trò là một “quốc gia đối tác” của Mỹ, với “một bên mang thân phận nô lệ, hạ mình và một bên coi thường bên còn lại.” Khi thủ tướng Nhật Bản Yukio Hatoyama nỗ lực hình thành Cộng đồng Đông Á và giảm bớt mạnh của các căn cứ quân sự Mỹ tại Okinawa, ông Yukio Hatoyama đã bị trừng phạt bằng một bức tường đá chống lại từ phía Chính quyền Obama và đã phải từ chức sau chưa đầy chín tháng cầm quyền. Kể từ đó, các thủ tướng Nhật Bản đã bám chặt hơn vào người Mỹ. Mặc dù ngày càng xuất hiện nhiều hơn những lời kêu gọi về việc xem xét lại liên minh này xét trên góc độ về một thế giới đa cực ngày càng tăng, báo cáo gửi CSIS nhằm mở rộng vai trò của Nhật Bản dưới quyền lãnh đạo của Mỹ.
Với các mối liên kết pháp lý và con người lâu nay giữa hai thể chế an ninh quốc gia của hai nước, điều này có thể thành công.
Kích hoạt những sự phản đối
Và trường hợp này được coi là một sự mâu thuẫn. Như những quan sát của Philip Seaton trong cuốn “Những Ký ức chiến tranh gây tranh cãi của Nhật Bản”, Mỹ đóng vai trò là một nước kích động các chính trị gia Nhật Bản đã hủy bỏ những lời xin lỗi trước đây về các hành động trong thời chiến tranh với những hành động và ngôn từ gây hấn:
Xét tổng thể, chính sách của Mỹ, kể từ sau vụ khủng bố 11/9 rõ ràng là hữu ích đối với phe bảo thủ Nhật Bản. Chính phủ Mỹ hỗ trợ cho Chính phủ Nhật Bản về bồi thường (bất chấp bị người dân Mỹ chỉ trích) nhằm loại bỏ các yếu tố theo chủ nghĩa hòa bình trong pháp luật của Nhật Bản không lên án việc thờ cúng tại ngôi đền Yasukuni, nơi thờ cúng tất cả những quân nhân Nhật bị phe Đồng Minh kết tội phạm tội ác chiến tranh và thúc đẩy mạnh mẽ việc tái vũ trang của Nhật Bản. Một số nhà nghiên cứu mới của Mỹ đã khuyến cáo Nhật Bản nên tự vũ trang bằng vũ khí hạt nhân để đối phó với nguy cơ từ Bắc Triều Tiên, một đề xuất kinh khủng đối với nhiều người Nhật Bản.
Tất cả các điều này được xem là “sai lầm khi giải quyết quá khứ” nếu Chính phủ Nhật Bản đơn phương theo đuổi, khi đó tội đồng lõa của Nhật Bản với đồng minh quan trọng nhất trong cái “sai lầm khi giải quyết quá khứ” trở nên rõ ràng.
Báo cáo của Armitage và Nye rõ ràng muốn khẳng định sự đồng lõa này. Tăng cường khả năng tấn công và phạm vi hoạt động của quân đội Nhật Bản là điều cuối cùng có thể xoa dịu những ký ức cay đắng của phát xít Nhật trong suốt thời kỳ 15 năm chiến tranh 1931-1945. Và muốn khuyến khích sự tin tưởng vào lực lượng quân sự thì hãy để những vết thương này có thể lành lại.
Do vậy, mục tiêu chính của báo cáo này mâu thuẫn với lời kêu gọi vượt qua các vấn đề lịch sử của nó. Nếu nhóm của Armitage có bất kỳ quan tâm thực sự nào tới việc sửa chữa sai lầm quá khứ trong chiến tranh, họ sẽ là nhừng con diều hâu xem xét những phàn nàn của người Trung Quốc cũng như của người Triều Tiên, mà không đề cập tới các nạn nhân của sự tàn ác của người Mỹ.
Thay vào đó, họ lại cho sự gây hấn ngày càng tăng của Trung Quốc là lý do chính cho sự hỗ trợ quân sự Mỹ-Nhật. “Các nhà quản lý đồng minh” tại Oasinhtơn và Tôkyô đã mượn cớ triệt để mâu thuẫn với Trung Quốc (và Bắc Triều Tiên) để vượt qua sự phản đối khi họ giới thiệu ngày càng nhiều hệ thống vũ khí tại Nhật Bản. Và một khuyến nghị mà báo cáo không đưa ra – trong dịp tưởng niệm 75 năm vụ thảm sát Nam Kinh – là Nhật Bản phải đối mặt với càng nhiều sự xúc phạm về những gì đã gây ra tại Trung Quốc.
Không, các chuyên gia của CSIS thích thú với việc tranh luận về lịch sử chỉ với một chừng mực rằng nó liên quan đến mục tiêu chiến lược của Mỹ: Nhật Bản và Hàn Quốc phải ngừng cãi vã, như vậy hai nước này mới có thể được Mỹ sử dụng hiệu quả hơn để chống lại Trung Quốc. Khi Hàn Quốc, trong thế đối mặt với sự phản đối của dư luận tập trung vào các tranh cãi lịch sử, vội vã ký kết một thỏa thuận chia sẻ tình báo với Nhật Bản, đó là một tin rất xấu tại Lầu Năm Góc. Chắc chắn, bản báo cáo hối thúc “nhanh chóng tiến tới chấm dứt” thỏa thuận này.
Trong một buổi thuyết trình báo cáo, Armitage nói một cách đầy thán phục về “nỗi nhục quốc gia” của Nhật Bản, dường như không để ý đến vai trò của Điều 9 trong việc xây dựng nó. Armitage và Nye viết rằng Nhật Bản có thể bỏ qua báo cáo của họ trừ phi muốn trở thành một “quốc gia bậc một – nghĩa là cùng cấp với nước Mỹ, với “sức mạnh kinh tế đáng kể, tiềm lực quân sự, tầm nhìn toàn cầu, và vai trò lãnh đạo chủ chốt đối với các vấn đề quốc tế . Điều đó có nghĩa nếu muốn trở thành một quốc gia mạnh mẽ thì hãy tiến về phía trước. Tuy nhiên, Armitage kỳ vọng về “một Nhật Bản mà trong đó người Nhật trẻ tuổi có thể mơ ước, chứ không chỉ tồn tại”. Để làm được cái điều “không chỉ là tồn tại” rõ ràng, đất nước Nhật Bản phải luôn trong tình trạng chiến tranh. Nói cách khác, Nhật Bản phải là một đế quốc, hay ít nhất là một nước chư hầu yêu thích.
Trong thời điểm khủng hoảng hiện nay, con đường phía trước đòi hỏi việc nhận ra lợi ích chung của tất cả người dân trong khu vực Đông Bắc Á – bất kể họ khác biệt như thế nào trong chính sách đối ngoại của Mỹ.
*
* *
TTXVN (Oasinhtơn 22/10)
Ngày 12/10, Tạp chí Chính sách đối ngoại đăng bài viết “Giải quyết vấn đề Okinawa - Bao nhiêu lính thủy đánh bộ của Mỹ vẫn cần hiện diện tại Nhật Bản” của tác giả Mike Mochizuki, giáo sư chính trị học và các vấn đề quốc tế tại Đại học George Oasinhtơn, Mỹ và Michael O’Hanlon giám đốc nghiên cứu chính sách đối ngoại tại Viện Brookings, Mỹ. Nội dung bài viết như sau:
Thời gian gần đây, lính thủy đánh bộ Mỹ bắt đầu triển khai máy bay quân sự V-22 Osprey tới Okinawa, Nhật Bản. Osprev bay giống như một chiếc máy bay cánh quạt nhưng có thể cất và hạ cánh như máy bay trực thăng. Nó bay nhanh hơn máy bay trực thăng và có sự linh hoạt chiến thuật hơn loại máy bay cánh quạt. Sự xuất hiện của loại máy bay này cũng khơi lại cuộc tranh luận dai dẳng giữa Nhật Bản và Mỹ về tương lai sự hiện diện của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ trên đảo Okinawa. Các ý kiến chỉ trích cho rằng Osprey không an toàn và yêu cầu đưa loại máy bav này về Mỹ. Trong khi dữ liệu về chuyến bay chưa phản ánh các cáo buộc cụ thể này, giới hoạch định chính sách ở Tôkyô và Oasinhtơn cần phải nhận ra rằng họ có một vấn đề thậm chí còn lớn hơn phải đối mặt, đó là tìm kiếm một cách thức mới ít khả năng xâm nhập hơn trong việc đặt căn cứ lính thủy đánh bộ trên hòn đảo nhỏ ở cực nam của quần đảo Nhật Bản.
Các câu hỏi về sự hiện diện của quân đội Mỹ trên đảo Okinawa đã gây nhiều tranh cãi trong suốt hai thập kỷ qua. Với khoảng 15,000 đến 20.000 quân có mặt ở đây, lính thủy đánh bộ Mỹ chiếm hơn 1/3 quân đội Mỹ có mặt tại Nhật Bản. Ngoài ra, có khoảng 10.000 lính trong lực lượng không quân đồn trú tại căn cứ không quân Kadena trên đảo Okinawa. Sự có mặt của lính thủy đánh bộ Mỹ khiến người dân địa phương phẫn nộ. Ngoài ra, Okinawa là một trong những tỉnh duy nhất ở Nhật Bản có sự gia tăng dân số thực sự, vì vậy, các quan chức địa phương muốn dành đất cho các mục đích khác.
Có rất nhiều lý do để bảo vệ sự hiện diện của lực lượng lính thủy đánh bộ, cũng như vị thế của Mỹ tại Nhật Bản, trước hết là phục vụ lợi ích liên minh chung tại một khu vực châu Á-Thái Bình Dương ổn định. Oasinhtơn đã cố gắng phối hợp với Tôkyô để di dời căn cứ. Đề nghị gần đây nhất là xây dựng một sân bay trên bờ vịnh Henoko cách xa về phía Bắc, tại khu vực ít đông dân hơn trên đảo Okinawa. Tuy nhiên, các chính trị gia cấp địa phương và trung ương của Nhật Bản đã nhiều lần chặn lại. Năm 2006, Mỹ và Nhật Bản đồng ý di dời gần một nửa lực lượng lính thủy đánh bộ từ Okinawa tới đảo Guam trong vài năm tới nhằm giảm áp lực cho Okinawa. Đáng chú ý, mặc dù có một số vụ tai nạn liên quan tới dòng máy bay Osprey, song thống kê hồi tháng 8/2012 cho thấy vòng đời của nó dài hơn so với loại máy bay trung bình của lính thủy đánh bộ. Theo Bộ tư lệnh lính thủy đánh bộ Mỹ, Osprey có tỷ lệ tai nạn nghiêm trọng thấp hơn 20% trong cùng số giờ bay so với máy bay trực thăng điển hình hoặc các loại máy bay khác của lính thủy đánh bộ. Mặc dù vậy, cần phải thảo luận công khai hai vụ tai nạn gần đây nhằm giảm bớt lo lắng trên đảo Okinawa.
Các chương trình di dời hiện bị mắc kẹt trong bãi lầy của nền chính trị Okinawa, tháng 6 vừa qua, liên minh cầm quyền của tỉnh trưởng Hirokazu Nakaima không giành đa số phiếu trong cuộc bầu cử hội đồng tỉnh. Thực tế này đặt ông Nakaima vào thế phòng ngự. Trước sự bất mãn của dân chúng về việc triển khai Osprey, tỉnh trưởng Okinawa có ít sự lựa chọn ngoài việc cứng rắn hơn trong việc giải quyết vấn đề căn cứ Futenma, không phê duyệt căn cứ bên bờ vịnh Henoko, cũng như chống lại việc triển khai Osprey.
Một vấn đề khác trong kế hoạch của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ tại khu vực là kế hoạch xây dựng sân bay kết hợp với việc di dời một phần quân tới đảo Guam. Đây không phải là lỗi của lực lượng lính thủy đánh bộ bởi họ đã cố gắng tìm kế hoạch tốt nhất cho mọi vấn đề. Ngoài những thách thức về chính trị, kế hoạch này phải đối mặt với thách thức về ngân sách khi nó cần khoảng 30 tỷ USD, được chia đều cho Tôkyô và Oasinhtơn, trong bối cảnh ngân sách của Lầu Năm Góc bị đe dọa cắt giảm thêm 10% nữa. Trên thực tế, khoản cắt giảm gần 10% ngân sách trước đó đã có hiệu lực từ lúc ký Đạo luật kiểm soát ngân sách 2011 của Mỹ.
Có một cách làm kinh tế, đơn giản và triển vọng, đó là cắt giảm biên chế của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ tại Nhật Bản. Nó sẽ tốn một khoản tiền nhất định, song có thể được tài trợ phần lớn bởi Nhật Bản (vì Mỹ giúp Nhật Bản giải quyết một vấn đề gai góc của địa phương). Bù lại, Mỹ sẽ tiết kiệm được khoảng 30 tỷ USD do không phải triển khai kế hoạch hiện tại. Futenma cuối cùng sẽ được đóng cửa. Từ nay đến đó sẽ cần thực hiện các điều khoản đầu tiên nhằm hạn chế việc sử dụng các sân bay trên đảo Okinawa của lính thủy đánh bộ Mỹ và Nhật Bản được quyền tiếp cận đầy
đủ các cơ sở lính thủy đánh bộ trong thời điểm khủng hoảng hoặc chiến tranh.
Cụ thể, Mỹ chỉ nên giữ lại từ 5.000 đến 8.000 lính lính thủy đánh bộ trên đảo Okinawa và đưa số còn lại đến các nơi như Camp Pendleton, California mà không phải là xây dựng căn cứ mới trên đảo Guam. Sau đóMỹ sẽ điều tàu trang bị vũ khí và vật tư cho vài nghìn lính lính thủy đánh bộ trong vùng biên Nhật Bản (để bổ sung cho năng lực tương tự hiện có tại các cảng ở Guam) nhằm cho phép lính thủy đánh bộ đã được tái triển khai ở Mỹ nhanh chóng trở lại Tây Thái Bình Dương khi xảy ra một cuộc khủng hoảng. Ngoài ra, lính thủy đánh bộ đóng tại Mỹ sẽ luân chuyển thường xuyên tới khu vực châu Á-Thái Bình Dương để diễn tập với bạn bè và các đồng minh, trong đó có Nhật Bản.
Về sân bay, Mỹ có thể thực hiện một số thay đổi, trong đó thực hiện kịp thời cam kết đóng cửa căn cứ Futenma và trả lại đất cho địa phương quản lý. Để thay thế một số chức năng của căn cứ Futenma, Mỹ cần xây dựng một sân bay trực thăng nhỏ bên trong một căn cứ Lính thủy đánh bộ hiện có ở nửa phía Bắc của đảo, nơi lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ đang thực hiện hầu hết các chương trình huấn luyện, đồng thời giảm thiểu tác động về mặt hậu cần.
Ngoài ra, theo thỏa thuận với Tôkyô và Chính quyền Okinawa, Mỹ sẽ tìm kiếm quyền triển khai một số chuyến bay của lính thủy đánh bộ tại căn cứ không quân Kadena nếu cần thiết, với điều kiện tổng số lần cất cánh và hạ cánh tại căn cứ đó không tăng lên. Để đảm bảo rằng căn cứ không quân Kadena không bận rộn hơn, Mỹ nên đưa một số máy bay của không quân tại đây tới những nơi khác như Misawa ở miền Bắc Nhật Bản hoặc thậm chí đảo Guam. Cuối cùng, Nhật Bản có thể xây dựng một đường bang thứ ba tại sân bay quốc tế Naha, phục vụ cho việc phát triển kinh tế của đảo trong thời bình và cung cấp khả năng sử dụng quân sự cho Mỹ và Nhật Bản khi xảy ra khủng hoảng hoặc chiến tranh.
Đây là kế hoạch toàn thắng. Nó giúp tiết kiệm ngân sách cho cả hai nước Mỹ và Nhật Bản; đồng thời thực sự giúp cải thiện khả năng phản ứng của Mỹ trước các cuộc khủng hoảng có thể xảy ra ở khu vực.
Mỹ và Nhật Bản đã bị sa lầy bởi vấn đề Okinawa quá lâu. Vừa qua, thời gian quý báu và tài năng của các nhà hoạch định chính sách đi theo hướng cố gắng giải quyết một vấn đề đã trở nên gần như không giải quyết được. Chúng ta cần xem xét vấn đề này một lần nữa, giải quyết nó, và cuối cùng vượt qua nó. Việc thắt chặt ngân sách quốc phòng Mỹ có thể là động lực cuối cùng cần thiết để thúc đẩy các nhà hoạch định chính sách tới suy nghĩ mới mẻ và hành động quyết đoán./TTXVN/ Basam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét