Pages

Thứ Hai, 27 tháng 10, 2014

Điểm sách của Bill Hayton: Biển Đông và cuộc chiến tranh giành quyền lực ở châu Á

Tác giả: David Brown
Người dịch: Trần Văn Minh
H1Trong những vấn đề nan giải toàn cầu, tham vọng bá quyền của Trung Quốc ở Biển Đông nên được đưa lên hàng đầu, cùng với thay đổi khí hậu, Thánh chiến và chống vi-rút Ebola. Vấn đề dường như không thể kiểm soát, vì thế giải quyết vấn nạn này đã trở thành sự thử nghiệm quan trọng, liệu trật tự quốc tế có thích hợp với một ‘Trung Quốc đang trỗi dậy’ hay không.
Bất kể tính thận trọng của Tổng thống Barack Obama, biết rằng tham gia vào một cuộc chiến ở nước ngoài dễ hơn là giành chiến thắng, sự đe dọa của các chiến thuật mà Bắc Kinh đặt ra trước lợi ích sống còn của Hoa Kỳ, đang lôi kéo Washington vào một cuộc đối đầu khó tránh khỏi với Trung Quốc. Cho tới một vài năm trước, có thể thấy rằng vấn đề Biển Đông là một cuộc tranh cãi giữa các nước ven biển về nguồn cá và tài nguyên dưới đáy biển, bị làm trầm trọng thêm bởi tính dửng dưng của Trung Quốc. Bây giờ đã rõ ràng là Trung Quốc không muốn đàm phán chủ quyền lãnh thổ với các nước láng giềng theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), mà chỉ quan tâm tới những điều có lợi cho họ. Washington đã phải gác lại giấc mơ về quan hệ đối tác toàn cầu với siêu cường mới trỗi dậy của châu Á, trong khi cân nhắc sự kiểm soát các tuyến đường biển quan trọng của Trung Quốc trong tương lai. Theo Bill Hayton thì Biển Đông “là vị trí đầu tiên trong tham vọng của Trung Quốc đưa tới việc đối mặt với quyết tâm chiến lược của Mỹ”.

Đây là một cuộc đối đầu mà chúng ta cần phải hiểu, và Hayton, phóng viên BBC đã từng có thời gian ở Myanmar và Việt Nam, đã cung cấp cốt truyện. Cuốn Biển Đông, với phụ đề Cuộc đấu tranh quyền lực ở châu Á mà ông nghiên cứu kỹ lưỡng và viết thật chải chuốt, đã được xuất bản tại Anh vào cuối tháng 9 và sẽ được Nhà xuất bản Yale Press xuất bản tại Mỹ vào ngày 28 tháng 10. (Cuốn sách được bán trên Amazon với giá 28 USD).
Cuốn sách dày 320 trang của Hayton chắc chắn sẽ được so sánh với một cuốn sách gần đây của Robert Kaplan có cùng chủ đề, Vạc dầu châu Á: Biển Đông vàsự kết thúc của Thái Bình Dương ổn định. Đó là hai cuốn sách khác nhau. Kaplan tung ra sự khái quát nhẹ nhàng về bản sắc, lợi ích quốc gia và nỗi ám ảnh có tham vọng của các nhà lãnh đạo châu Á. Kaplan cho biết, tất cả là sự cân bằng quyền lực, một cuộc cạnh tranh diễn ra “trong cảnh quan mới và có phần hoang vu này của thế kỷ 21″. Đông Nam Á trong mắt ông là một nơi mà Trung Quốc có sứ mệnh đưa những nước chư hầu ngày xưa trở lại quỹ đạo thích hợp của họ và là nơi, nếu Washington thực tế trong sự phân tích, thì phải vui vẻ nhường lại vị thế ưu tiên cho Bắc Kinh.
Ngược lại, Hayton thì giải thích. Các chương mở đầu của ông đã dễ dàng dẫn độc giả đi qua năm ngàn năm trên Biển Đông, rằng đó là một khu vực chung bị chi phối bởi những nhà thám hiểm tiền-Mã Lai. Sau đó, các đế quốc thương mại trỗi dậy và suy tàn: Phù Nam, Champa, Majahapit và Malacca. Vào khoảng năm 1400, lần đầu tiên và duy nhất trước thời đại hiện nay, Trung Quốc trong một thời gian ngắn đã trở thành một cường quốc biển, gửi các đội tàu lớn tới Ấn Độ và Đông Phi trước khi chuyển sự chú ý của mình vào nội địa. Người Âu Châu trong việc tìm kiếm các loại gia vị, đồ gốm và lụa, đến vào những năm 1500. Tây Ban Nha thiết lập quyền thống trị trên quần đảo Philippines; ba thế kỷ sau đó, Pháp ở Đông Dương và Anh tại các bang Malay đã tạo ra các thuộc địa của họ và thậm chí bắt buộc Trung Quốc phải quy phục trước chính sách ngoại giao pháo hạm.
Những người Âu Châu, với ý định phân định ranh giới và thiết lập độc quyền lãnh thổ, đã vô tình đặt nền móng cho ý thức tinh thần quốc gia mãnh liệt, vào giữa thế kỷ 20, trở thành cựu thuộc địa và nhượng địa của họ. Việt Nam, Philippines, Malaysia, và Trung Hoa (cả chính phủ Đài Loan và Bắc Kinh) tất cả tuyên bố những mảng lớn và chồng chéo trên một vùng biển mở rộng mà trong quá khứ đã nối kết họ với nhau thay vì phân chia. Tất cả đã hối hả dựng quốc kỳ của họ trên các rạn san hô, đá và những đảo nhỏ (những ‘cụm’ tập hợp) rải rác trên vùng biển rộng lớn.
Tấm thảm đắt giá mà Hayton dệt tự nó có sức hấp dẫn, nhưng tầm quan trọng đáng chú ý là sợi chỉ ông cẩn thận kéo ra: Đòi hỏi chủ quyền dựa trên chứng cứ lịch sử của Trung Quốc ở vùng biển phía nam Hồng Kông và đảo Hải Nam chủ yếu là rác vụn. Bằng chứng của Trung Quốc đơn giản là không đứng vững trước biên niên sử của các chúa Nguyễn ở Việt Nam, vào khoảng năm 1750, đã phái những cuộc thám hiểm hàng năm đến cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Người Việt Nam chủ yếu khai thác các tàu đắm​​, chắc chắn như thế, nhưng họ đã để lại những dấu vết và lưu giữ hồ sơ cẩn thận.
Trớ trêu thay, người Việt Nam đã ngưng dựa vào những bằng chứng lịch sử của riêng mình. Thay vào đó, họ dựa vào các quy định phân chia vùng biển được hệ thống hóa trong Công ước Quốc tế về Luật biển, có hiệu lực từ năm 1994. Philippines và Malaysia cũng như vậy. Luật pháp quốc tế là nơi trú ẩn của các quốc gia nhỏ và yếu hơn. Đối với các quốc gia mạnh có ý đồ gỡ bỏ những nỗi nhục trong quá khứ, thì luật pháp quốc tế thường là sự phiền toái bất tiện. Nhà cầm quyền Bắc Kinh có lẽ biết luận điểm pháp lý của họ yếu kém; họ có thể suy diễn rằng Trung Quốc lẽ ra đã thống trị các vùng biển lân cận nếu không bị Tây phương và Nhật Bản áp bức. Đối với một thường dân Trung Quốc vấn đề đó thật giản dị. Các giáo viên và truyền thông đại chúng đã thuyết phục ông ta rằng chủ quyền của Bắc Kinh trên các vùng biển phía Nam và các quần đảo là “không thay đổi” và “không thể tranh cãi.”
Các nhà phân tích – trong số đó gồm có Hayton và tác giả bài viết này – khó có thể giải thích vì sao Bắc Kinh quá ngạo mạn, làm sứt mẻ sự kính trọng [của thế giới dành cho họ] để cho đến gần đây họ đã phải cố gắng hết sức để lấy lại. Hayton thử đưa ra quan điểm cho rằng giới lãnh đạo hải quân, các công ty dầu mỏ và chính quyền địa phương đã mạnh mẽ theo đuổi chính sách đối ngoại tự lập, kéo theo những nhà lãnh đạo cấp cao không muốn lộ vẻ yếu đuối. Lập luận trên không đứng vững trong thời đại Tập Cận Bình; trong những năm gần đây chiến thuật của Trung Quốc đã được phối hợp nhịp nhàng một cách đáng chú ý.
Các nhà phân tích khác đổ lỗi cho cơn khát dầu hỏa và khí đốt dữ dội của siêu cường đang lên. Không nghi ngờ rằng sự tăng trưởng trong tương lai của Trung Quốc phụ thuộc vào nguồn cung cấp phong phú của cả hai. Nhưng chắc phải có nghi ngờ rằng Biển Đông là “Vịnh Ba Tư thứ hai” thường được đề cập trong phương tiện truyền thông Trung Quốc. Hơn nữa, ngang bằng với tỷ giá hối đoái, Trung Quốc đã không có khó khăn tìm nguồn cung ứng dầu khí bên ngoài khu vực, cũng như không nước nào có lợi ích để can thiệp vào mối thương mại đó.
Những quan sát viên phương Tây không cố gắng tìm hiểu vấn đề thường có xu hướng coi những yêu sách và tham vọng của Trung Quốc không kém giá trị hơn tất cả những nước khác. Kaplan đi xa hơn, xem luật pháp quốc tế thực ra không thích đáng trong tranh chấp Biển Đông. Tuy nhiên, tầm mức to lớn của yêu sách lãnh thổ và chiến thuật được sử dụng trong việc theo đuổi mục tiêu của Trung Quốc, là rất quan trọng đối Mỹ và các quốc gia có lợi ích lớn trong việc duy trì một trật tự thế giới hòa bình, dựa trên luật pháp và tự do mậu dịch. Các nhà phân tích này cho rằng một “Trung Quốc đang trỗi dậy” sẽ chỉ chơi theo luật khi phù hợp với lợi ích của họ. Điều đó có nghĩa rằng, Hayton kết luận, khu vực rộng 3.5 triệu kilomet vuông này — vùng ‘biển kín’ lớn nhất thế giới — đã trở thành nơi mà bản chất khác biệt giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ có ngày xung đột.”
Mỗi năm trôi qua, sự căng thẳng tăng cao hơn. Một động lực không ổn định khó tránh khỏi việc sẽ kéo Mỹ và đồng minh châu Á chủ yếu là Nhật vào, để hỗ trợ Việt Nam và Philippines. Trung Quốc không cho thấy có dấu hiệu dịu xuống. Chưa nhìn thấy một kết cuộc hài hòa.
Tái bút: Trớ trêu thay, Bill Hayton không được chào đón tại Việt Nam. Ông là thông tín viên thường trú của BBC tại Hà Nội trong năm 2007-2008. Rõ ràng là các bài viết của ông vào thời điểm đó đã gây khó chịu cho nhà cầm quyền. Khi Hayton nộp đơn xin visa tham dự một cuộc hội thảo tháng 11 năm 2012 về các vấn đề Biển Đông do Học viện Ngoại giao Việt Nam tổ chức, ông đã bị từ chối. Vài tháng sau, Hayton nộp đơn một lần nữa, đặc biệt với yêu cầu phỏng vấn các quan chức Việt Nam cho cuốn sách sắp tới của mình. Một lần nữa ông lại bị từ chối. Kết quả là phần trong cuốn sách của Hayton nói về Việt Nam và Biển Đông tương đối “mỏng” — thiếu những chi tiết để thu hút độc giả mà cuộc nói chuyện với các chuyên gia Việt Nam có thể sẽ cung cấp. Đó là một điều đáng tiếc – và một câu chuyện khác (cho đến nay) có kết cuộc chẳng mấy hay ho gì!
David Brown là một nhà ngoại giao Mỹ đã về hưu, là người viết về các chủ đề Đông Nam Á với sự quan tâm đặc biệt đến Việt Nam đương đại. Có thể liên lạc với ông tại địa chỉ nworbd@gmail.com.
—–
Ghi chú: Bản tiếng Anh đã được đăng trên trang Asia Sentinel: Book Review: The South China Sea: The Struggle for Power in Asia. Một bản khác, tác giả viết riêng cho các độc giả Việt Nam, có phần khác với bản này.

Không có nhận xét nào: