Pages

Thứ Hai, 26 tháng 12, 2011

Nói như rồng leo, làm như mèo mửa

 
Trong một buổi chất vấn chính phủ trong Quốc hội Việt Nam ngày 25 tháng 11 năm 2011 vừa qua, 22 đại biểu đã đặt câu hỏi cho ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng CSVN, trong đó có hai người hỏi về vấn đề chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông. Ông Dũng đã có bài diễn văn dài 10 phút để trả lời về vấn đề hiện đang sôi bỏng này. Ngay sau đó, các báo chí nhà nước và cơ quan truyền thông quốc doanh („báo chí lề phải“) đã đăng tin nhiều ngày liên tiếp và không ngớt lời ca tụng nào là „các phát biểu có trách nhiệm, tâm huyết“, nào là „trả lời thẳng thắn, công khai và đanh thép“ của một nhân vật thuộc cái gọi là Tứ trụ triều đình Hà Nội -gồm có Chủ tịch Đảng Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng và ông Nguyễn Tấn Dũng.

Vậy ông Dũng đã tuyên bố những gì ghê gớm thế?
Xin được lại ghi tóm tắt các điểm chính yếu theo nguyên văn Quốc hội Việt Nam công bố. Ông Dũng đã nói hôm 25 tháng 11 như sau:
„Chúng ta phải giải quyết và khẳng định chủ quyền đối với 4 loại vấn đề trên biển Đông như sau:
Vấn đề thứ nhất, về đàm phán phân định ranh giới vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ là quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, vì vậy 2 nước Việt Nam và Trung Quốc cùng nhau đàm phán để phân định ranh giới vùng biển này trên cơ sở Công ước Luật biển, trên cơ sở DOC, trên cơ sở các nguyên tắc đã thoả thuận.
Vấn đề thứ hai, chúng ta khẳng định rằng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Năm 1956 Trung Quốc đưa quân chiếm đóng các đảo phía Đông của quần đảo Trường Sa. Đến năm 1974 cũng Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự quản lý hiện tại của chính quyền Sài Gòn, tức là chính quyền Việt Nam Cộng Hoà. Chính quyền Sài Gòn, chính quyền Việt Nam Cộng Hoà đã lên tiếng phản đối, lên án việc làm này và đề nghị Liên hợp quốc can thiệp. Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam của chúng ta lúc đó cũng đã ra tuyên bố phản đối hành vi chiếm đóng này. Lập trường nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Nhưng chúng ta chủ trương đàm phán giải quyết đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hoà bình.
Vấn đề thứ ba, quần đảo Trường Sa, năm 1975 giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc thì Hải Quân chúng ta đã tiếp quản 5 hòn đảo tại quần đảo Trường Sa, đó là đảo Trường Sa, đảo Song Tử Tây, đảo Sinh Tồn, đảo Nam Yết và đảo Sơn Ca, năm đảo này do quân đội của chính quyền Sài Gòn, chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, đang quản lý chúng ta tiếp quản.
Sau đó với chủ quyền của chúng ta, chúng ta tiếp tục mở rộng thêm lên 21 đảo, với 33 điểm đóng quân. Ngoài ra chúng ta còn xây dựng thêm, 15 nhà giàn ở khu vực bãi Tư Chính để khẳng định chủ quyền của chúng ta ở vùng biển này, vùng biển trong phạm vi mà 200 hải lý thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của chúng ta. Trong khi đó ở quần đảo Trường Sa, Trung Quốc cũng đã chiếm 7 bãi đá ngầm, Đài Loan chiếm 1 đảo nổi, Philipin chiếm 9 đảo, Malaixia chiếm 5 đảo, còn Bruney có đòi hỏi chủ quyền trên vùng biển nhưng không có chiếm giữ đảo nào.
Vấn đề thứ tư, chúng ta phải giải quyết và khẳng định chủ chúng ta trong phạm vi 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo Công ước Luật Biển năm 1982.
Do không có thời gian, nên tôi xin trình bày vắn tắt 4 vấn đề mà chúng ta đang chủ trương giải quyết và khẳng định chủ quyền trên Biển Đông.”
Không biết Quý vị Độc giả thấy có gì gọi là hùng hồn trong câu trả lời chất vấn đó không?
Tôi thì không. Chỉ ngạc nhiên mà thôi.
Trước tiên, một vấn đề sôi bỏng của đất nước, trọng đại như ranh giới, biển đảo và toàn vẹn lãnh thổ, một vấn đề đã và đang kéo dài từ mấy năm trời qua –thậm chí mấy chục năm nếu tính từ 1974- vậy mà trong Quốc hội chỉ có hai (2) ông nghị đặt ra câu hỏi có tính cò mồi cho chính phủ! Và đối lại, người cầm đầu nhà nước Việt Nam chỉ dành vỏn vẹn có 10 phút đồng hồ, để đọc một bản Statement, rồi kết luận bằng câu „do không có thời gian, nên tôi xin trình bày vắn tắt 4 vấn đề…“ . Không có một phê phán, không một tranh luận, không một ý kiến đề nghị nào từ phía các ông bà nghị Quốc hội Việt Nam sau bài nói của ông Dũng cả.
Mà đúng ra, người ta phải có rất nhiều điểm cần đặt vấn đề với ông Nguyễn Tấn Dũng.
Thứ nhất, cuộc chiến huynh đệ tương tàn đã chấm dứt năm 1975 với sự chiến thắng của miền Bắc, vậy mà 35 năm trời qua, năm nào cũng như năm nấy, nhà cầm quyền CSVN đều tổ chức rầm rộ bồng súng, diễu binh, phất cờ, bắn pháo bông tốn kém, ra rả tuyên truyền cho chiến thắng của mình. Nhưng tại sao từ 36 năm qua, từ ngày 17-1-1974 khi CS Trung Quốc xua tàu lớn tàu bé ngang ngược xâm chiếm bằng vũ lực toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, mà cho đến tháng 11 năm 2011 mới có một lãnh tụ CSVN chính thức và công khai khẳng định hành động đó của Bắc Kinh là xâm lăng thô bạo lãnh thổ của Việt Nam? Không những 74 chiến sĩ hải quân Việt Nam Cộng Hoà đã hi sinh trong cố gắng bảo vệ giang sơn tại Hoàng Sa năm 1974, mà 64 thuỷ binh Việt Nam cũng đã hi sinh anh dũng trong trận hải chiến bất cân đối chống hải quân Trung Quốc tại Trường Sa ngày 14-3-1988. Và trong cuộc Chiến tranh biên giới Việt – Trung tháng 2 năm 1979, máu của 50.000 thanh niên trai tráng Việt Nam đã đổ xuống để giữ gìn bờ cõi nước nhà, cho dù ngày nay một phần thác Bản Giốc và Ải Nam Quan đã bị Trung Quốc nuốt trửng.
Vậy câu hỏi đáng lí phải đặt ra với ông Dũng tại Quốc hội vừa qua là: Tại sao lại lịt lịt, im ỉm 36 năm trời trước một kẻ xâm lăng không hề che đậy ý đồ từ phương Bắc?

Thứ hai, ngay sau khi Hoàng Sa bị CS Bắc Kinh xâm chiếm, chính quyền Việt Nam Cộng Hoà đã tức tốc cực lực tố cáo ra quốc tế, đưa hành động xâm lăng trắng trợn này ra Liên hiệp quốc để xin can thiệp. Trong khi đó, theo tin của đài BBC ngày 22-1-1974 (người ta có thể dò lại hồ sơ lưu trữ của BBC), ngay sau khi xảy ra cuộc hải chiến hải quân Việt Nam Cộng Hoà (miền Nam) và CS Trung Quốc, thì đại diện ngoại giao của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (miền Bắc) và của chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam (Mặt Trận Giải Phóng) tại Bắc Kinh đã im hơi lặng tiếng, tránh né, không nói một lời nào khi bị báo chí ngoại quốc chất vấn. Cho đến 2 ngày sau khi cuộc xâm chiếm đã hoàn tất –hôm 21-1-1974- trước sức ép quá lớn của dư luận trong và ngoài nước, lúc đó Hà Nội mới ra một bản tuyên bố trước hành vi ăn cướp của Trung Cộng, với những lời lẽ nhùng nhằng như kẹo cao su: „…Đôi khi có những tranh chấp mà lịch sử để lại, rất phức tạp và cần được nghiên cứu thật kĩ lưỡng…“ Sau khi được Hà Nội bất xong đèn xanh, Mặt Trận Giải Phóng mới lục tục ra một công văn tương tự.
Làm như thể vào thời điểm tháng Giêng năm 1974 lúc đó, Hà Nội và Mặt Trận Giải Phóng chưa biết là quần đảo Hoàng Sa nằm xó nào và có thuộc về lãnh thổ Việt Nam hay không, cho nên họ phải cần nhiều thời gian để „nghiên cứu thật kĩ lưỡng“. Và họ đã nghiên cứu… quá kĩ lưỡng, không phải một hay hai năm, mà gần đến 37 năm sau, nghĩa là vào cuối tháng 11 vừa qua, một ông Thủ tướng CSVN mới công khai xác định được chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và lên án hành động của Trung Quốc vào ngày 19-1-1974 trên Hoàng Sa là một hành vi xâm lược.
Câu hỏi cần đặt ra với ông Dũng trong buổi chất vấn Quốc hội vừa qua là: Rắc rối chỗ nào mà lại nghiên cứu lâu thế? Tại sao Đảng và Nhà nước lại phớt lờ để mất một phần của giang sơn gấm vóc gần cả 4 thập kỉ qua?
Thứ ba, như trong đoạn trích phía trên, trước Quốc hội hôm 25-11-2011 ông Dũng đã khẳng định rằng „quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam“. Và có lẽ vì các nghị ông nghị bà trong hội trường Ba Đình đã tỏ ra hụt hẫng và hoang mang trước lời tuyên bố mới này, nên ông Dũng đã nhắc đi nhắc lại như đọc chính tả trong lớp tiểu học, rằng Lập trường nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Không phải chỉ có các ông bà nghị đeo bảng hiệu cờ đỏ sao vàng to bằng tấm thẻ ATM bên ngực trái hụt hẫng và hoang mang, mà cả dân chúng trong và ngoài nước cũng đôi chút bất ngờ và khó tin ông Dũng.
Vì đây chính là lập trường của từng lớp người Việt Nam yêu nước từ 4 năm qua, khắp mọi miền đất nước. Đây cũng là nguyên văn mà anh Blogger Điếu Cày – Nguyễn Văn Hải đã viết bằng chữ trắng trên mũ bảo hiểm màu đen của anh trong một cuộc xuống đường rộng lớn chưa từng có vào ngày 9 tháng 12 năm 2007: “Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam”. Và đây là lí cớ vì sao Điếu Cày, Anh Ba SG, Tạ Phong Tần, các thành viên trong Câu lạc bộ Nhà báo Tự do -những người có thể được xem là tiên phong trong những lần xuống đường đầu tiên phản đối hành vi xâm lược ngang ngược của Trung Quốc- đã bị bắt giam, cho tới nay. Còn biết bao người nữa đã tham gia và ủng hộ cuộc biểu tình ngày đó như blogger Hồ Lan Hương, Đông A SG, Trăng Đêm, Uyên Vũ, Thiên Sầu, Bùi Chát… vẫn tiếp tục bị sách nhiễu, rình rập, khủng bố tinh thần… Theo Blogger Mẹ Nấm, thì những người tham gia biểu tình cho lí tưởng “Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam” vẫn tiếp tục bị đe doạ, bị trấn áp bằng nhiều hình thức như: đánh nguội, bắt nguội, áp lực với nơi đăng ký tạm trú, hăm doạ gia đình, bị tung xe, bị mất việc làm,…
Cho nên chính ra người ta cần phải chất vấn ông Dũng: Tại sao cũng với lập trường „quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa (là) thuộc chủ quyền của Việt Nam“ đó, mà các anh chị em biểu tình 11 lần trong suốt mùa Hè qua tại Hà Nội và Sài Gòn đã bị công an đàn áp vô cùng thô bạo như: vặn cổ, bẻ quặp tay, khiêng người biểu tình như khiêng lợn thảy lên xe buýt, thò chân đạp giày vào mặt thanh niên biểu tình, giam giữ người không giấy tờ,… còn ông Dũng thì vẫn tiền hô, hậu ủng, báo chí tung hê? Tại sao một người phụ nữ yêu nước như bà Bùi thị Minh Hằng đi biểu tình để khẳng định rằng „Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam“ thì bị bắt nhốt oan ức 2 năm trong trại Phục hồi Nhân phẩm (?!), còn ông Nguyễn Tấn Dũng thì nhăn răng vô sự, dù ông ta đã tỏ ra vô cùng ngoan cố, không chịu phục thiện, cứ lập đi lập lại câu nói trên nhiều lần trong bài diễn văn, có chứng cớ rành rành trên cả 600 tờ báo lề phải?
Thứ tư, để lấy lại Hoàng Sa đã bị cướp đi một cách thô bạo vào tay Trung Quốc từ 37 năm qua, ông Dũng đã giải thích với Quốc hội rằng: „Chúng ta chủ trương đàm phán giải quyết đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa bằng biện pháp hoà bình“. Tuy nhiên, đưa ra chủ trương đàm phán về một vấn đề vô cùng kẹt cứng là Hoàng Sa, mà không đưa ra được bất cứ lộ trình, sách lược, chiến lược nào cho tương lai, thì lời phát biểu này chỉ có giá trị của nguyên tắc hi vọng mà thôi. Nói cho có nói, nói để mị dân.
Muốn đàm phán, người ta cần có ít nhất là 2 bên để nói chuyện với nhau. Trong khi ông Dũng chủ trương đàm phán về Hoàng Sa, thì phía Trung Quốc lại có chủ trương bóp nghẽn mọi cố gắng thương thảo, coi như chuyện đã xong hết rồi:“Không có gì để đàm phán cả… Chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc chưa bao giờ là đề tài tranh chấp và Việt Nam đã thừa nhận điều này trong quá khứ. Thảo luận về nỗ lực hợp tác bảo vệ tài nguyên, tìm kiếm cứu nạn và các việc khác là một chuyện, chủ quyền của Trung Quốc là một chuyện khác”.(1)
Trước thái độ phủi tay ngó lơ của Trung Quốc về vấn đề Hoàng Sa, chủ trương đàm phán song phương của ông Dũng coi như rất khó khả thi. Mà ngay cả trong trường hợp Trung Quốc đồng ý nói chuyện về Hoàng Sa đi nữa, thì trong bối cảnh lệ thuộc nghiêm trọng vào Trung Quốc về chính trị (2), kinh tế (3), và văn hoá (4) của nước ta hiện nay, Việt Nam cũng chẳng có gì trong tay để mặc cả, để làm đối trọng.
Muốn tạo một số áp lực nào đó để kéo Trung Quốc vào bàn hội nghị về Hoàng Sa (cũng như Trường Sa và Biển Đông), thì ông Dũng bắt buộc phải chọn con đường đàm phán đa phương trong tương lai với Trung Quốc: Vận động các nước ASEAN để soạn thảo và thông qua bộ Quy tắc Ứng xử (COC) trên Biển Đông, đoàn kết chặt chẽ với các nước trong vùng cũng bị Trung Quốc ức hiếp, nâng cao mối bang giao với các nước Ấn, Hàn, Nhật, Úc, Mỹ và nhất là thành lập một cách nghiêm túc và chuyên nghiệp hai hồ sơ Hoàng Sa và Trường Sa, để chuẩn bị đưa ra Toà án Quốc tế về Luật biển (ITLOS) tại Hamburg, Đức.
Công việc cần làm thì bề bộn và phức tạp, nhưng người cầm đầu chính phủ Hà Nội tạo cho chúng ta có cảm tưởng là sau khi đưa ra những lời giải trình „hoành tráng“ trên đây về tình hình Biển Đông, ông ta có vẻ mãn nguyện lắm rồi, coi như thể Trung Quốc sẽ sợ khiếp vía trước những lí lẽ chắc nịch của Việt Nam, mà đem trả lại Hoàng Sa cho nước ta trong một tương lai gần đây.
Muốn biết ai sợ ai, người ta chỉ cần theo chân ông Hồ Cương Quyết -một người Pháp có quốc tịch Việt Nam- về tỉnh Lý Sơn để xem ông làm cuốn phim „Hoàng Sa – Nỗi đau mất mát“. Bộ phim này là tiếng nói chân thật của các ngư dân miền Trung bị tàu Trung Quốc cướp bóc, đánh đập, hành hạ tại vùng biển đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Những chiếc tàu Trung Quốc mà các báo chí lề phải trong nước phải theo lệnh cấp trên để nói trại ra là „tàu lạ“ trong các bản tin của mình.
Buổi trình chiếu „Hoàng Sa – Nỗi đau mất mát“ đã bị lực lượng an ninh Sài Gòn ngăn cấm thô bạo vào ngày 29-11-2011 tại Sài Gòn, chỉ có 4 ngày sau buổi trả lời chất vấn rất „ấn tượng“ của ông Nguyễn Tấn Dũng trước Quốc hội Ba Đình.
Đúng là nói như rồng leo, mà làm như mèo mửa!
Nguyễn Bặc
26-12-2011
(4) Mặc Lâm: Trung Quốc khống chế Việt Nam trên lãnh vực văn hoá

Không có nhận xét nào: