Pages

Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2013

Thấy gì qua chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của chủ tịch nước Trương Tấn Sang ?

Nguyễn Văn Huy


Nhận lời mời của tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama, ngày 23-7-2013, ông Trương Tấn Sang, chủ tịch nước, cùng một phái đoàn đại biểu cấp cao trong chính quyền cộng sản Việt Nam đã rời Hà Nội lên đường thăm chính thức Hoa Kỳ từ ngày 24 đến 26-7-2013. Đây là một dấu mốc quan trọng trong quá trình phát triển quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ.

Trong suốt chuyến viếng thăm, ông Trương Tấn Sang đã lần lượt hội đàm, hội kiến với các cấp lãnh đạo chính quyền và quốc hội Hoa Kỳ, đồng thời cũng đã gặp gỡ chính giới, doanh nghiệp, học giả, lãnh đạo một số tổ chức quốc tế và một số người được chọn lọc trong cộng đồng người Việt Nam ở Mỹ. Các thành viên chính thức của đoàn cũng đã có các cuộc gặp gỡ trao đổi với đại diện các cơ quan đối tác, nhằm thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác giữa hai nước.

Tầm quan trọng của quan hệ đối tác Việt-Mỹ

Chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ của ông Trương Tấn Sang, chủ tịch nước Việt Nam, diễn ra trong bối cảnh quan hệ hợp tác giữa hai nước có những bước tiến triển rõ rệt. Đây là dịp để lãnh đạo hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ trao đổi về những định hướng lớn nhằm thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển và về các vấn đề khu vực, quốc tế mà hai bên cùng quan tâm.

Từ sau khi hai nước Việt Nam-Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ ngoại giao ngày 11/07/1995 đến nay, theo tinh thần “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”, quan hệ giữa hai nước đã có những bước phát triển tích cực trên nhiều lĩnh vực. Các cơ chế hợp tác cụ thể được thiết lập và đang được triển khai trên nhiều lĩnh vực, từ chính trị-ngoại giao, kinh tế-thương mại, an ninh-quốc phòng đến khoa học-công nghệ, giáo dục, đào tạo, nhân đạo…

Về quan hệ chính trị, hai nước đã trao đổi nhiều phái đoàn cấp chính phủ, quốc hội, bộ ngành. Trong những chuyến viếng thăm cấp cao, hai bên đã ra ba Tuyên bố chung trong những năm 2005, 2006, 2008, trong đó khẳng định mong muốn xây dựng “quan hệ đối tác tích cực, hữu nghị, xây dựng, hợp tác nhiều mặt, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi”.

Về quan hệ kinh tế-thương mại, hai nước đã ký nhiều hiệp định hợp tác song phương. Tháng 5-2006, hai bên chính thức kết thúc đàm phán song phương về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Ngày 9-12-2006, Quốc hội Mỹ đã thông qua dự luật áp dụng Quy chế Quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR-Permanent Normal Trade Relations) với Việt Nam và đã được tổng thống Mỹ George Bush ký ban hành ngày 29-12-2006. Hiện nay Việt Nam đã tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Ecomic Partnership Agreement, viết tắt là TPP-Trans-Pacific Partnership) với Hoa Kỳ và 9 nước khác, trong tháng 7 này đang tiến hành đàm phán vòng 18 tại Malaysia. Hai nước đã ký Hiệp định Thương mại song phương Việt-Mỹ (BTA-Bilateral Trade Agreement) và kể từ khi hiệp định này có hiệu lực ngày 10-12-2001, quan hệ thương mại giữa hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ đã tăng trưởng nhanh chóng. Kim ngạch thương mại hai chiều liên tục tăng trong những năm gần đây, năm 2012 đạt 24,5 tỷ USD, tăng 14% so với năm 2011. Tính đến tháng 5-2013, kim ngạch thương mại hai chiều đạt hơn 11 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu 8,8 tỷ USD, nhập khẩu 2,2 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm ngoái. Từ năm 2005, Hoa Kỳ trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.

Về đầu tư, tính đến ngày 20/05/2013, tổng vốn đầu tư trực tiếp FDI (Foreign Direct Investment) của Hoa Kỳ vào Việt Nam đã lên tới 10,5 tỷ USD, với 658 dự án, đứng thứ 7 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Nhiều công ty của Mỹ đang kinh doanh tại Việt Nam, trong đó có những đại công ty như Inter, Microsoft, GE, Chevron, ExxonMobil…

Kể từ khi ký Hiệp định Hợp tác về khoa học-công nghệ giữa hai nước vào năm 2000, hai bên đã lập Ủy ban Hỗn hợp hợp tác khoa học-công nghệ, tiến hành trao đổi hợp tác song phương về khoa học-công nghệ, hợp tác trên nhiều lĩnh vực như khí tượng thủy văn, công nghệ không gian, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn đo lường chất lượng, hải dương học, nghiên cứu biển và hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao để nâng cao năng lực công nghệ cho Việt Nam. Hai bên đã phát triển quan hệ “đối tác kiểu mẫu” trong nghiên cứu về biến đổi khí hậu và khắc phục hậu quả của biến đổi khí hậu, nước biển dâng…

Trong hợp tác giáo dục, hiện có khoảng 16.000 sinh viên, thực tập sinh Việt Nam đang theo học tại Hoa Kỳ, đứng đầu trong số các nước Đông Nam Á về số lượng người theo học tại Mỹ, tăng 4,6% so với năm 2011.

Trong 4 tháng đầu năm 2013, lượng khách du lịch từ Mỹ đến Việt Nam lên đến 165.200 người, đứng hạng thứ 4 sau Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản.

Trong lãnh vực hợp tác y tế và nhân đạo, hai bên đã ký nhiều văn kiện hợp tác. Việt Nam đã là một trong số 15 quốc gia nhận viện trợ của chương trình phòng, chống HIV/AIDS. Hoa Kỳ và Việt Nam đã hợp tác trong việc tẩy độc da cam (dioxine), trợ cấp y tế cho người khuyết tật trong đó có nạn nhân do chất độc dioxine gây ra. Hai bên cũng hợp tác tích cực trong lĩnh vực rà phá bom mìn, điều tra khảo sát, đánh giá tác động của sự ô nhiễm bom mìn, vật liệu nổ còn sót lại sau chiến tranh.

Trên tinh thần nhân đạo, hai bên Việt Nam và Hoa Kỳ đã tích cực thúc đẩy hoạt động tìm kiếm hài cốt người mất tích trong chiến tranh tại Việt Nam. Hai bên đã thực hiện thành công 111 đợt hoạt động hỗn hợp, 127 đợt trao trả hài cốt, phía Hoa Kỳ nhận dạng được 695 trường hợp. Phía Hoa Kỳ hợp tác với Việt Nam cung cấp thông tin liên quan đến việc tìm kiếm người Việt Nam mất tích trong chiến tranh.

Trên các diễn đàn đa phương, hai bên đã hợp tác tốt trong các cơ chế như APEC (Asia Pacific Economic Cooperation), ARF (ASEAN Regional Forum), ADMM+ (ASEAN Defense Ministerial Plus Meetting), EAS (East Asia Summit)…

Tuy nhiên, do khác nhau về thể chế chính trị, hai bên vẫn còn rất nhiều quan điểm khác biệt về dân chủ, nhân quyền, tôn giáo. Mặc dầu đã xây dựng được cơ chế đối thoại nhân quyền thường xuyên giữa hai nước từ năm 1994 và đã tiến hành 17 vòng đối thoại nhằm tăng cường hiểu biết và thu hẹp bất đồng, chưa vấn đề nào đã hoàn toàn được giải quyết. Phía Việt Nam đã liên tiếp bị những tổ chức tranh đấu cho nhân quyền và tự do ngôn luận quốc tế lên án.

Lần này, trong chiến lược đa dạng quan hệ ngoại giao, chính quyền cộng sản Việt Nam mong muốn phát triển quan hệ với các nước phát triển phương Tây, đặc biệt là những quốc gia thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc mà phía Việt Nam muốn trực tiếp tham dự vào công tác bảo vệ hòa bình trong những vùng đang có tranh chấp. Hậu ý của chuyến viếng thăm này cũng nhằm góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trên chính trường quốc tế trong việc duy trì hòa bình và ổn định trên thế giới, đồng thời cũng để tranh thủ cảm tình của thế giới phương Tây trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Việt Nam trước sự tham vọng bá quyền của Trung Quốc trong khu vực.

Tuyên bố chung của hai ông Trương Tấn Sang và Obama

Ngày 25/07/2013, tổng thống Barack Obama đã tiếp ông Trương Tấn Sang, chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tại Nhà Trắng.

Trong cuộc gặp gỡ, hai ông Barack Obama và Trương Tấn Sang cam kết mở ra một giai đoạn mới cho quan hệ song phương giữa hai nước dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và những lợi ích chung, cụ thể là xác lập quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ (comprehensive partnership)nhằm xây dựng một khuôn khổ tổng thể để thúc đẩy quan hệ.

Sau cuộc gặp gỡ, hai ông Barack Obama và Trương Tấn Sang đã ra tuyên bố chung về quan hệ "đối tác toàn diện" (comprehensive partnership) để tạo ra các cơ chế hợp tác trên nhiều lãnh vực, trong đó có quan hệ chính trị và ngoại giao, quan hệ thương mại và kinh tế, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, môi trường và y tế, giải quyết hậu quả chiến tranh, quốc phòng và an ninh, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, văn hóa, thể thao và du lịch.

Về hợp tác chính trị và ngoại giao :

Hai bên nhất trí tăng cường trao đổi cấp cao, tiếp xúc ở tất cả các cấp và ủng hộ việc tăng cường các cơ chế đối thoại và hợp tác. Tổng thống Obama khẳng định Hoa Kỳ ủng hộ độc lập, chủ quyền, thịnh vượng và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang hoan nghênh Hoa Kỳ tăng cường hợp tác tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đóng góp vào hòa bình, ổn định và thịnh vượng ở khu vực. Hai nhà lãnh đạo hoan nghênh việc thiết lập cơ chế đối thoại thường kỳ giữa hai bộ trưởng ngoại giao và khuyến khích các cuộc đối thoại và trao đổi giữa các cơ quan đảng của hai nước.

Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác tại các diễn đàn khu vực và quốc tế, trong đó có Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS), và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+) nhằm thúc đẩy hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.

Hai ông tái khẳng định ủng hộ giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có những quy định của Công ước Luật Biển của Liên hợp quốc (UNCLOS-UN Law of the Sea). Hai ông Trương Tấn Sang và Obama tái khẳng định ủng hộ nguyên tắc không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp trên biển và tranh chấp lãnh thổ và nhấn mạnh giá trị của việc tuân thủ đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC-Declaration of Conduct), và tầm quan trọng của việc khởi động đàm phán để hoàn tất một bộ Quy tắc ứng xử (COC-Code of Conduct) có hiệu quả.

Hai ông đánh giá cao Sáng kiến Hạ nguồn sông Mekong (LMI-Low Mekong Initiative) và cùng với các nước thành viên LMI khác và Nhóm những người bạn của khu vực hạ nguồn sông Mekong tăng cường hợp tác khu vực nhằm thúc đẩy sự thịnh vượng và phát triển bền vững xuyên quốc gia trong khu vực.

Lãnh đạo hai nước chỉ đạo các cơ quan liên quan hoàn thành trong thời gian sớm nhất có thể thỏa thuận song phương về việc xây dựng các sứ quán và cơ quan đại diện của hai nước. Hai ông khẳng định các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam và Hoa Kỳ tại thủ đô mỗi nước cần phản ánh sự phát triển của quan hệ song phương.

Về quan hệ kinh tế và thương mại :

Hai bên tái khẳng định cam kết hoàn tất đàm phán về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) toàn diện và tiêu chuẩn cao vào thời điểm sớm nhất có thể trong năm nay. Tổng thống Obama ghi nhận những nỗ lực cải cách của Việt Nam với tư cách một nền kinh tế đang phát triển. Hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh giá trị then chốt của các nỗ lực này đối với quan hệ song phương và tầm quan trọng của hợp tác kinh tế như một nền tảng và động lực của Đối tác Toàn diện mới Việt Nam - Hoa Kỳ.

Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác trong khuôn khổ Hội đồng Hiệp định khung về Thương mại và Đầu tư (TIFA-Trade and Investment Framework Agreement), cũng như theo sáng kiến Gắn kết Kinh tế Mở rộng ASEAN và trong APEC nhằm tăng cường liên kết kinh tế và thương mại phù hợp với Đối tác Toàn diện song phương và các mục tiêu chung trong Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), APEC và các diễn đàn của ASEAN. Hai ông ghi nhận việc Việt Nam dự định tham gia Công ước Cape Town về lợi ích quốc tế đối với thiết bị di dộng (CTC-Cape Town Convention on International Interests in Mobile Equipment).

Hai bên ghi nhận tầm quan trọng của quan hệ thương mại ngày càng tăng giữa hai nền kinh tế và đặc biệt nhắc tới : Bản ghi nhớ giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Ngân hàng Xuất Nhập khẩu Hoa Kỳ về hỗ trợ thương mại và đầu tư trong lĩnh vực dầu khí và năng lượng ở Việt Nam, Thỏa thuận khung triển khai dự án phát triển mỏ Cá Voi Xanh ngoài khơi Việt Nam giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Công ty Exxon Mobil, Thỏa thuận hợp tác giữa Tổng Công ty thăm dò, khai thác dầu khí (PVEP) và Công ty dầu khí Murphy, Bản ghi nhớ giữa Công ty bảo hiểm Metropolitan Life (Metlife) và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chấp thuận của Bộ Tài chính Việt Nam về chủ trương thành lập công ty quản lý quỹ của Công ty bảo hiểm ACE.

Hai ông hoan nghênh sự hỗ trợ của Bộ nông nghiệp Hoa Kỳ đối với các chương trình xây dựng năng lực và đào tạo nhằm giúp Việt Nam tiếp nhận và áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến, mang lại lợi ích cho nông dân, các công ty nông nghiệp và người tiêu dùng Việt Nam. Hai nhà Lãnh đạo thừa nhận tầm quan trọng của việc bảo vệ thành phần dân cư dễ bị tổn thương trong khi phát triển kinh tế, trong đó có việc cùng nhau đấu tranh chống lao động trẻ em và lao động cưỡng bức.

Về hợp tác khoa học và công nghệ :

Hai bên hoan nghênh những nỗ lực nhằm xây dựng quan hệ giữa các cộng đồng khoa học tại Việt Nam và Hoa Kỳ để tăng cường hợp tác song phương, ứng phó với biến đổi khí hậu và các thách thức toàn cầu khác, và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dựa trên sự sáng tạo.

Hai bên tái khẳng định tiếp tục thúc đẩy hợp tác khoa học, trong đó có lĩnh vực năng lượng hạt nhân dân sự, công nghệ không gian và nghiên cứu biển, và hoan nghênh việc kết thúc thành công chương trình chuyển đổi thanh nhiên liệu có độ giàu uranium cao ra khỏi Việt Nam.

Về hợp tác giáo dục :

Hai bên nhất trí về sự cần thiết tăng cường hợp tác giáo dục, văn hóa và giao lưu nhân dân giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Hai ông nhấn mạnh sự gia tăng nhanh chóng số lượng sinh viên Việt Nam theo học tại các trường đại học và cao đẳng tại Hoa Kỳ và bày tỏ hy vọng ngày càng nhiều sinh viên Hoa Kỳ tìm kiếm cơ hội du học tại Việt Nam. Hai ông nhất trí rằng hợp tác chặt chẽ về giáo dục, đào tạo là nhân tố quan trọng trong giai đoạn tới của quan hệ giữa hai nước và ghi nhận việc thúc đẩy đào tạo tiếng Anh sẽ giúp Việt Nam cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu thế kỷ 21.

Hai bên ghi nhận sự thành công của các sáng kiến giáo dục, trao đổi song phương, đặc biệt là các Chương trình giảng dạy kinh tế Fullbright và Chương trình Liên minh Giáo dục Đại học ngành kỹ thuật (HEEAP-High Engineering Education Alliance).

Về môi trường và y tế :

Hai bên hoan nghênh hợp tác song phương ngày càng tăng nhằm giảm khí thải nhà kính tại Việt Nam qua việc gia tăng năng lượng sạch, hiệu suất năng lượng và lâm nghiệp bền vững và tăng cường khả năng của Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và thảm họa thiên nhiên, trong đó có Chương trình Năng lượng sạch và Chương trình Rừng và Đồng bằng của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID). Tổng thống Obama tái khẳng định Hoa Kỳ cam kết tăng hỗ trợ về chăm sóc y tế và các hình thức chăm sóc, trợ giúp khác cho người khuyết tật vì bất cứ nguyên nhân nào ở Việt Nam.

Hai ông nhất trí hợp tác với các nước đối tác LMI thúc đẩy nghiên cứu khoa học, xây dựng năng lực và đối thoại để bảo đảm sức sống lâu dài và bền vững của đồng bằng sông Mekong và lưu vực hạ nguồn sông.

Hai bên hài lòng về việc ký kết Hiệp định Hợp tác Y tế và Khoa học Y học gần đây và mong muốn thúc đẩy hợp tác y tế công nhằm tăng cường an ninh y tế toàn cầu. Ông Trương Tấn Sang đánh giá cao việc Hoa Kỳ, thông qua Kế hoạch cứu trợ khẩn cấp về phòng chống AIDS của tổng thống Hoa Kỳ (PEPFAR-President’s Emergency Plan for AIDS Relief), tiếp tục hỗ trợ những nỗ lực của Việt Nam nhằm xây dựng hệ thống phòng ngừa, điều trị và chăm sóc HIV/AIDS bền vững.

Về các vấn đề hậu quả chiến tranh :

Hai bên nhất trí rằng việc tăng cường hợp tác giải quyết hậu quả chiến tranh làm sâu sắc sự tin cậy lẫn nhau, cho phép hai nước phát triển mối quan hệ hướng tới tương lai. Ông Obama đánh giá cao việc Việt Nam tiếp tục hợp tác tìm kiếm đầy đủ quân nhân Hoa Kỳ mất tích trong chiến tranh và tái khẳng định cam kết của Hoa Kỳ hỗ trợ những nỗ lực của Việt Nam trong việc tìm kiếm bộ đội mất tích. Ông Trương Tấn Sang ghi nhận những đóng góp của Chính phủ Hoa Kỳ đối với các nỗ lực của Việt Nam trong việc rà phá các vật liệu nổ còn sót lại (UXO-Unexploded Ordnance), hỗ trợ những nạn nhân bị thương do các vật liệu nổ còn sót lại, và ngăn chặn thương vong trong tương lai.

Hai bên bày tỏ sự hài lòng đối với những tiến triển của dự án tẩy độc dioxine tại sân bay Đà Nẵng giữa Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) và Bộ quốc phòng Việt Nam. Ông Trương Tấn Sang hoan nghênh các kế hoạch của Hoa Kỳ về việc tiến hành đánh giá về mức độ nhiễm độc đioxin đối với môi trường tại sân bay Biên Hòa.

Vê quốc phòng và an ninh :

Hai bên nhất trí Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ tiếp tục hợp tác về quốc phòng và an ninh và bày tỏ sự hài lòng đối với Bản ghi nhớ về thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương ký năm 2011 và tái khẳng định cam kết triển khai đầy đủ Bản ghi nhớ.

Hai bên nhất trí tiếp tục Đối thoại chính sách quốc phòng Việt Nam - Hoa Kỳ và Đối thoại chính trị, an ninh, quốc phòng song phương nhằm đánh giá quan hệ quốc phòng và an ninh và thảo luận về hợp tác trong tương lai.

Hai bên nhất trí mở rộng hợp tác cùng có lợi nhằm tăng cường năng lực trong lĩnh vực tìm kiếm cứu nạn và ứng phó thiên tai. Hai ông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thúc đẩy hợp tác trong các vấn đề an ninh phi truyền thống và nhất trí hợp tác chặt chẽ hơn nữa trong lĩnh vực chống khủng bố ; tăng cường hợp tác thực thi pháp luật trên biển ; đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, trong đó có chống cướp biển, buôn lậu ma túy, buôn bán người, buôn bán động vật hoang dã ; ứng phó với tội phạm công nghệ cao và vấn đề an ninh mạng.

Tổng thống Obama hoan nghênh quyết định của Việt Nam tham gia Hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc và nhấn mạnh Hoa Kỳ mong muốn hỗ trợ đào tạo và các hình thức hỗ trợ khác cho hoạt động này thông qua Sáng kiến hoạt động hòa bình toàn cầu (GPOI-Global Peace Operations Initiative).

Về việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người :

Hai bên ghi nhận lợi ích của việc đối thoại thẳng thắn và cởi mở nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau, thu hẹp khác biệt về quyền con ngườ, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Ông Trương Tấn Sang thông báo vnhững nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong việc thúc đẩy quyền con người, nhà nước pháp quyền và bảo vệ quyền của các tín đồ tôn giáo, đồng thời cũng khẳng định Việt Nam sẵn sàng ký Công ước chống tra tấn của Liên hợp quốc vào cuối năm nay và tuyên bố Việt Nam sẽ mời Báo cáo viên Đặc biệt về Tự do tôn giáo và tín ngưỡng vào năm 2014. Hai bên tái khẳng định cam kết ủng hộ Hiến chương Liên hợp quốc và Tuyên ngôn thế giới về quyền con người.

Về văn hóa, du lịch và thể thao :

Hai bên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thúc đẩy hợp tác văn hóa, thể thao và du lịch nhằm tăng cường giao lưu nhân dân và hiểu biết lẫn nhau, đồng thời ghi nhận thành công của cộng đồng người Mỹ gốc Việt ở Hoa Kỳ và sự đóng góp quan trọng của họ đối với quan hệ song phương.

Hai bên khuyến khích giao lưu nhân dân thông qua các hoạt động biểu diễn nghệ thuật, hòa nhạc, triển lãm và các sự kiện văn hóa và thể thao khác giữa hai nước.

(Toàn văn bản tuyên bố chung đăng tải trên trang web của White House).

Việt Nam thực tâm hay đãi bôi ?

Trong chiến lược đa dạng quan hệ ngoại giao của Việt Nam, giới quan sát quốc tế thường đã nhắc tới nguyện vọng của Việt Nam muốn thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Hoa Kỳ. Nhưng đối với những người nắm vững tình hình chính trị tại Việt Nam, ước muốn này cần được quan sát với tất cả dè dặt, vì trước đó hơn một tháng chính ông Trương Tấn Sang đã thực hiện một chuyến viếng thăm Trung Quốc với một tuyên bố chung không mang cùng nội dung với chuyến viếng thăm này. Theo nội dung bản tuyên bố chung này, tổng thống Obama chỉ mong muốn chứ không yêu cầu.

Điều này cho thấy tổng thống Obama không cần Việt Nam trong chiến lược xoay trục của Hoa Kỳ, ngược lại đã trực tiếp giúp Việt Nam trong những chương trình lương thực, y tế và giáo dục nhằm nâng cao mức sống của người dân Việt Nam. Bên cạnh đó là những chương trình giúp đỡ Việt Nam trên nhiều lãnh vực của những tổ chức thiện nguyện Hoa Kỳ. Sự thành tâm này, phía chính quyền cộng sản Việt Nam hiểu rất rõ, bằng chứng là con cháu của những cán bộ lãnh đạo cao cấp trong Đảng cộng sản Việt Nam đều được gởi sang Hoa Kỳ để được đào tạo, chứ không phải sang Trung Quốc.

Nhưng hợp tác với Hoa Kỳ cho tới này, đối với Đảng cộng sản Việt Nam, vẫn còn là một ước muốn chưa có câu trả lời dứt khoát. Có người nói đây là một vấn đề truyền thống vì chính quyền cộng sản Việt Nam có nhiều gắn bó với các các chế độ cộng sản trước đó như Nga và Trung Quốc, nhưng những cựu chế độ cộng sản Nga và Trung Quốc ngày nay đã hoàn toàn thay đổi và không còn coi Việt Nam là một tiền đồn chống Mỹ như trước : muốn cần gì thì phải mua chứ không cho không hay trả góp bằng hiện vật.

Thực ra, ước muốn nâng cấp quan hệ song phương của Hoa Kỳ đối với Việt Nam lên tầm đối tác chiến lược lần đầu tiên được đưa ra trong chuyến thăm Hà Nội năm 2010 của bà Hillary Clinton, ngoại trưởng Hoa Kỳ trong nhiệm kỳ Obama I. Mục tiêu chiến lược lâu dài mà Hoa Kỳ muốn nhắm tới là giới trẻ Việt Nam, do đó đã bằng mọi cách giúp đào tạo thanh niên Việt Nam trên nhiều lãnh vực cho sau này.

Để tránh tiếng lệ thuộc vào Nga và Trung Quốc, cho tới nay, Việt Nam đã ký kết quan hệ đối tác chiến lược với 12 quốc gia là Nga (2001), Nhật Bản (2006), Ấn Độ (2007), Trung Quốc (2008), Hàn Quốc (2009), Tây Ban Nha (2009), Anh (2010), Đức (2011), Ý, Singapore, Indonesia và Thái Lan (2013). Trong đó, quan hệ với Nga và Trung Quốc còn được năng lên một mức cao hơn nữa là đối tác chiến lược toàn diện.

Trong bài phát biểu tại Đối thoại Shangri-La tại Singapore cuối tháng 5/2013, ông Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng, cho hay Việt Nam muốn có quan hệ đối tác chiến lược với tất cả các thành viên thường trực Hộị đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, có nghĩa là cả Pháp và Hoa Kỳ ngay trong năm nay. Điều này cho thấy ông Trương Tấn Sang, mặc dù là chủ tịch nước, đã chấp hành đúng đường lối và chủ trương của thủ tướng chính phủ.

Quyết tâm đa dạng quan hệ ngoại giao của Việt Nam thật ra chỉ là một chiến lược để làm vừa lòng Bắc Kinh, nhằm che giấu sự ngả hẳn về phía Trung Quốc và lệ thuộc quá đáng vào Bắc Kinh trên mọi lãnh vực. Quan hệ đối tác toàn diện của Hà Nội đối với những quốc gia ngoài khôi Liên Xô cũ chỉ là sự đãi bôi về mặt ngoại giao.

Thế nào là "quan hệ đối tác toàn diện" ?

Đối với chính quyền cộng sản Việt Nam, cụm từ "quan hệ đối tác toàn diện" phải được hiểu theo nghĩa quan hệ đối tác có lợi cho Đảng cộng sản Việt Nam. Ở đây quan hệ đối tác toàn diện với Hoa Kỳ chỉ có nghĩa là quan hệ đối tác chiến lược chứ không phải toàn diện, nghĩa là không thể kéo dài lâu với thời gian. Ngược lại, trong Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc ngày 21/06/2013 là một quan hệ đối tác toàn diện vì Trung Quốc được quyền tham gia trực tiếp vào tất cả những vấn để trong chính quyền Việt Nam và còn buộc Hà Nội hợp tác khai thác tài nguyên dưới biển trên thềm lục địa của Việt Nam. Chính vì thế, sau tuyên bố này hai bên không hề ký kết một thỏa thuận chung nào, mà chỉ nhắc lại những thỏa thuận đã thực hiện trước đó. Điều này cho thấy Hoa Kỳ không tin vào sự thành thật của chính quyền cộng sản Việt Nam.

Đối với chính quyền Obama, Việt Nam chưa phải là một đối tác chiến lược toàn diện. Trả lời báo chí trong Phòng Bầu dục tại Tòa Nhà Trắng sau buổi gặp gỡ, tổng thống Obama cho biết cuộc đối thoại đã "rất thẳng thắn về cả tiến bộ mà Việt Nam đạt được và những thách thức còn tồn tại" với ông Trương Tấn Sang. Ông Trương Tấn Sang cũng thừa nhận hai bên còn những "khác biệt" và nói ông Obama sẽ "cố gắng" để thăm Việt Nam trước khi nhiệm kỳ kết thúc. Yếu tố khiến Mỹ xích lại Việt Nam là lo ngại về Trung Quốc, nhưng về điểm này thì tổng thống Obama hoàn toàn thất vọng và chỉ nhắc lại kêu gọi xây dựng bộ quy tắc ứng xử trên biển (COC) giữa ASEAN và Trung Quốc và hy vọng sẽ có bộ quy tắc "giúp giải quyết những vấn đề này trong hòa bình và công bằng".

Về nghi thức ngoại giao, chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã không được tiếp đón theo đúng nghi lễ đón tiếp cấp nhà nước. Người đón ông Trương Tấn Sang vào Tòa Bạch Ốc để giới thiệu với tổng thống Obama chỉ ở cấp đại sứ, đó là các ông David Shear, đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, và Marshall, người chịu trách lễ tân của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ. Buổi tiệc duy nhất mà chính phủ Hoa Kỳ chiêu đãi vịchủ tịch nước Trương Tấn Sang là buổi ăn trưa làm việc với ngoại trưởng John Kerry tại Bộ ngoại giao Hoa Kỳ ngày 24/07. Nhắc lại, trong chuyến viếng thăm chính thức Trung Quốc từ ngày 19 đến 21/06/2013, ông Trương Tấn Sang đã được ông Tập Cận Bình, chủ tịch nước, long trọng đón tiếp và cùng với ông Tập duyệt dàn chào danh dự.

Trong khi hai vị nguyên thủ quốc gia làm việc thì trước cửa Nhà Trắng, khoảng hai ngàn người Việt hải ngoại từ nhiều tiểu bang tập hợp biểu tình chống chủ tịch nước Trương Tấn Sang và đòi Hà Nội phải tôn trọng nhân quyền và thả tất cả tù nhân chính trị.

Nguyễn Văn Huy

(Thông luận)

Không có nhận xét nào: