Pages

Thứ Sáu, 19 tháng 8, 2011

Nước chưa mất nhưng đã mất nhiều thứ

Phạm Trần 66 năm sau Cách mạng Tháng Tám (19-08-1945) và Tuyên ngôn độc lập (02-09-1945) tại Vườn hoa Ba Đình - Hà Nội , đảng Cộng sản Việt Nam đã phản bội lời cam kết quan trọng nhất của Hồ Chí Minh : “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập… Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.

Thực tế sau 21 năm cầm quyền ở miền Bắc (1954-1975) và 36 năm chiếm được miền Nam để cai trị cả nước, những đệ tử của họ Hồ đã quay lưng chà đạp lên quyền có tự do của người dân và ngày càng để đất nước lệ thuộc vào Trung quốc.

Bằng chứng này đã được chứng minh trong Bài viết ngày 1/12/2010 trên Báo điện tử Bauxite Việt Nam của Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ VN tại Trung Quốc (1974-1989) : “Việt Nam không hề khiêu khích và xâm phạm vào đất Trung Quốc. Thế mà năm 1979, Trung Quốc huy động hàng chục sư đoàn “dạy cho Việt Nam một bài học”, giết hại dân và tàn phá bốn tỉnh của Việt Nam; đánh chiếm cao điểm 1509 trong huyện Vị Xuyên – Hà Giang của chúng ta; năm 1988, đánh đắm tàu hải quân, giết hơn 70 chiến sĩ, sĩ quan và chiếm một số bãi đá ngầm trong quần đảo Trường Sa của chúng ta.

Trong đàm phán biên giới, họ ép ta làm ta mất một nửa thác Bản Giốc, dân ta cũng không được đặt chân đến Ải Nam quan nữa, tất cả ta mất hàng trăm km2 đất. Họ xóa hiệp định phân định ranh giới vịnh Bắc Bộ giữa hai Chính phủ Pháp – Thanh (do lịch sử để lại) đòi chia lại, ăn hơn của ta một phần hải phận.

Sau khi nêu ra phương châm 16 chữ và 4 tốt với lãnh đạo ta (”Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”), họ đã nghiễm nhiên đứng được trên nóc nhà Đông Dương (Tây Nguyên) , vị trí chiến lược xung yếu của ta, khai thác Bốc-xít, di hậu họa cho hàng triệu đồng bào ta.

Các công ty của họ thuê rừng 50 năm để trồng cây bạch đàn, trước tiên là chặt cây phá rừng, tạo thêm nguyên nhân gây lũ lụt cho ta. Bạch đàn là cây ăn rất hại đất, hết hạn thuê, họ rút đi để lại cho ta hàng dãy hecta đất trống đồi trọc, vì không cây gì mọc được. Đây là một mưu kế rất thâm hiểm hại ta. Nguy hiểm hơn nữa là các công ty của họ thuê các khoảnh rừng trong đó ôm cả những đồi cao 600-700m tại các huyện Tràng Định, Bảo Lộc của Lạng Sơn và Tiên Yên của Quảng Ninh, có nơi chỉ cách biên giới Trung Quốc 700m. Họ phá rừng để trồng bạch đàn, phá rừng làm đường vào khu rừng họ thuê, họ làm đường xoáy trôn ốc lên đỉnh các đồi cao nói trên. 50 năm không ai kiểm soát được, họ có xây dựng công sự gì trên đỉnh các cao điểm ấy cũng không ai biết, liệu có để sau này sử dụng như cao điểm 1509 ở Vị Xuyên trước đây không? (Chú thích: Cao điểm này còn có tên là núi Lão Sơn, một vị trí chiến lược nằm sát biên giới Tầu đã bị Quân Tầu đánh chiếm của Việt Nam năm 1984)

Ngoài việc năm 1974, đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của ta, họ tự ý vẽ một cái “lưỡi bò” rất phi pháp bao chiếm gần hết biển Đông của Việt Nam, khoanh vùng cấm ngư dân ta vào đánh cá trong hải phận của mình, bắn chết, bắt ngư dân ta, tịch thu tài sản, ngư cụ, giam giữ, phạt tiền, dùng “tàu lạ” đâm chìm tàu cá của ngư dân ta.”

Nhà báo Tống Văn Công, nguyên Tổng biên tập của một số Báo trong nước cũng báo động nguy cơ lệ thuộc Tầu trong Bài viết ngày 16-08 (2011): “ Hiện nay độc lập dân tộc đang đứng trước sự đe dọa của ngoại bang còn nguy hiểm hơn những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám. Bởi vì giặc ngoại xâm ngày nay được nối giáo bởi giặc nội xâm, lại ngụy trang bằng mặt nạ đồng chí. Vận mệnh của Đảng bao giờ cũng phải gắn liền với vận mệnh dân tộc, nhưng đang bị ảo giác xui khiến, cố bấu víu vào đồng minh ý thức hệ!”

Ông Công còn hỏi đảng : “ Rồi vì sao 90% các công trình công nghiệp đều rơi vào tay nhà thầu Trung Quốc, hàng chục vạn lao động cơ bắp của Trung Quốc theo chân các công trình do họ trúng thầu rải từ Bắc vào Nam mà không có biện pháp ngăn chặn? Chỉ riêng khu khí điện đạm ở Cà Mau đã có 1056 lao động Trung Quốc, phần lớn không có tay nghề!”

Tình trạng nhiều ngàn công nhân Tầu làm việc ở Việt Nam không có phép và tay nghề chuyện môn cướp mất việc của người Việt đã có từ nhiều năm qua, nhưng Nhà nước Việt Nam hòan tòan bất lực.

Các viên chức Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đổ lỗi cho chính quyền địa phương không cương quyết kiểm soát theo đúng luật lệ và trách nhà thầu Trung quốc đã lợi dụng kẽ hở việc Việt Nam cho phép người Tầu vào Việt Nam 3 tháng không cần có phép để đưa người sang làm việc rồi ở luôn.

Ngày 11-08 (2011) Báo VnExpress.net viết về tình trạng này : “Trao đổi với VnExpress.net về tình trạng hơn 1.000 lao động Trung Quốc làm việc không phép tại công trình xây dựng nhà máy đạm trong Cụm khí điện đạm Cà Mau ở xã Khánh An (U Minh, Cà Mau), ông Nguyễn Tiến Hải - Phó chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau - nói rằng đây không phải là lần đầu tiên phát hiện tình trạng này. Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và xã hội đã nhiều lần kiểm tra và lần nào cũng có lao động Trung Quốc làm việc không phép, số lượng lần sau cao hơn lần trước. Vì vậy, có lần tỉnh Cà Mau đã đề nghị với Bộ Công an tiến hành trục xuất trên chục lao động Trung Quốc không phép tại công trình này.”

Nhưng “đề nghị” là một chuyện còn có trục xuất được hay không lại là chuyện khác.

Các Báo Việt Nam cho biết theo Luật, công nhân Tầu phải chứng minh bằng giấy chứng nhận có khà năng chuyên môn, nhưng hầu hết các trường hợp này là lao động chân tay, việc làm không cần kiến thức chuyên mồn đã ở lậu và làm chui nhưng các Chủ đầu tư phía Việt Nam là những Công ty của Chính quyền địa phương đã làm ngơ, hoặc bất lực.

Báo Thanh Niên viết : “ Chiều ngày 8.8, trao đổi với PV Thanh Niên, ông Văn Tiến Thanh, Phó trưởng ban quản lý dự án cụm Khí - Điện - Đạm Cà Mau thừa nhận, hiện công trình NMĐ Cà Mau có 1.056 lao động Trung Quốc không phép, trong đó có 607 lao động đã quá thời hạn cấp phép. Lý giải tình trạng này, ông Thành cho rằng do không tuyển được lao động người VN nên họ sử dụng lao động người Trung Quốc. Thậm chí sử dụng cả lao động không tay nghề đưa từ Trung Quốc sang.

Theo như lời ông Thanh, việc không tuyển lao động VN là do hiệu suất làm việc của lao động VN thấp so với lao động Trung Quốc. Nhà thầu lấy mặt bằng của Trung Quốc trả lương nên người VN không thích vào làm. Hiện lao động thủ công được trả khoảng 100.000 đồng/9 giờ/ngày. Quan trọng hơn là lao động VN không đáp ứng đủ về số lượng cũng như chất lượng mà dự án yêu cầu.

Trong khi đó, ông Lê Thanh Tòng, Phó Giám đốc Sở LĐ-TB-XH tỉnh Cà Mau cho rằng, lao động người Trung Quốc ở công trình NMĐ Cà Mau, phần đông là lao động phổ thông. Và những việc họ làm, lao động địa phương thừa sức làm. Nhưng không hiểu tại sao lại không tuyển lao động tại chỗ?

Báo Thanh Niên viết tiếp : “ Khi PV thắc mắc tại sao lại có tình trạng lao động nước ngoài không phép với số lượng khá đông và kéo dài trong thời gian như thế, ông Văn Tiến Thanh lý giải: “Hàng ngàn lao động nước ngoài hoạt động không phép ở VN là chuyện bình thường. Bởi có nhiều ông Tây sang đây làm việc, chắc chắn có ông có tay nghề, có ông không. Việc này đâu có gì đâu, mà dư luận phải la ầm lên?”.

Nhưng vấn đề công nhân Tầu tràn ngập Việt Nam từ Nam ra Bắc, không những lấy mất việc của người Việt mà còn gây ra nhiều vụ xung đột với người dân địa phương như đã xẩy ra ở Ninh Bình, Hải Phòng, Quảng Ngãi, Lâm Đồng v.v…

Nhiều Nhà Trí thức và cựu đảng viên lãnh đạo CSVN đã cảnh giác về hiểm họa an ninh lãnh thổ, nhưng Nhà nước vẫn làm ngơ hay đã bị phía Tầu bịt miệng là những thắc mắc đang lan rộng ở Việt Nam.

Theo con số chính thức thì hiện có khỏang 74 ngàn người nước ngòai đang làm việc ở Việt Nam thuộc nhiếu Quốc tịch, nhưng Chính phủ hòan tòan mù mịt về số công nhân chân tay người Tầu đang làm việc cho các Công ty Trung Quốc.

Chỉ cần lấy số 90 phần trăm gói thầu nằm trong ta các Công ty Trung Quốc thì số công nhân Tầu làm việc bất hợp pháp ở Việt Nam không phải là con số nhỏ.

Trương Tấn Sang, Chủ tịch Nước đã nói với người dân tại Sài Gòn ngày 11-08 (2011) rằng: “Việc lao động từ nước này sang nước khác làm việc là nhu cầu bình thường, vấn đề ở chỗ lực lượng lao động này phải tuân thủ pháp luật của nước sở tại. “Việc để lao động Trung Quốc sang làm việc không phép tại các công trường xây dựng ở nước ta trước hết có trách nhiệm của cơ quan quản lý địa phương, đã lỏng lẻo trong kiểm tra, kiểm soát”

Lạ chưa ? Đã biết là do lỗi của địa phương mà Trung ương vẫn để xẩy ra thì các cơ quan Trung ương là “bù nhìn” à ? Hay là tình trạng “trên bảo dưới không nghe” hoặc địa phương không còi Trung ương ra gì đã được chứng mkinh trong trường hợp này ?

SẢN PHẨM BAUXITE BÁN CHO AI ?

Ngòai những chương trình kinh tế, xây dựng,sản xuất điện, xi măng, phân bón v.v… Nhà nước Việt Nam còn để cho Tầu xây dựng hai Nhà máy sản xuất chất Alumine, lấy ra từ quặng Bauxite ở Lâm Đồng và Đắk Nông tr6en Tây Nguyên. Alumine là chất quặng sẽ biến thành nhôm, một sản phẩn dùng cho nhiều loại kỹ nghệ chế biến điện tử quan trọng, kể cả máy bay và xe auto mà Trung Quốc rất cần để phát triển kinh tế.

Hàng ngàn Trí thức và các chuyên viên hầm mỏ, luyện kim trong và ngòai nước cùng với nhiều nguyên lãnh đạo Đảng và Nhà nước, kể cả tướng Võ Nguyên Giáp và Bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch Nước đã khuyến cáo đình chỉ dự án Bauxite để bảo vệ tài nguyên và an ninh Quốc phòng, nhưng Bộ Chính trị thời Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và Nguyễn Tấn Dũng, dương kim Thủ tướng đã nhất quyết cứ làm.

Bây giờ gần đến giai đọan có sản phẩm đem bán, dự trù đầu năm 2012 thì nẩy sinh ra tình trạng nhiều đường chuyên chở nối liền hai Nhà máy ở Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắk Nông) về càng Gò Dầu tỉnh Đồng Nai, trong klhi chở xây cảng Kê Gà ở Bình Thuận bị xuống cấp, nhiều cây cầu không chịu nổi sức nặng 40 tấn của xe chuyên chở vì sức năng hiện nay chỉ chịu nổi 25 tấn.

Đinh La Thăng, Bộ trường Giao Thông-Vạn Tải đã nhất quyết không cho phép Công ty Than và Khoáng sản Việt Nam sự dụng xe chở 40 tấn, nếu chưa chịu nâng cấp đường và cầu.

Thăng nói với Báo chí ngày 14-08 (2011) tại Đồng Nai : “ Tôi được biết, QL20 đã xuống cấp nặng nhưng chưa được đại tu nâng cấp lần nào. Trên tuyến đường này còn có cầu Phương Lâm và cầu La Ngà chỉ có trọng tải 25 tấn, xe tải trọng nặng không thể đi qua. Ngoài QL20, còn có ĐT 769 cũng đã xuống cấp, QL51 đang thi công dở dang, đều là những hạn chế nhất định cần phải xem xét, khắc phục ngay. Bộ đã giao cho Tổng cục Đường bộ Việt Nam kiểm tra cụ thể để có kế hoạch sửa chữa, nhanh chóng nâng cấp những tuyến đường kể trên, nhất là cầu trên QL20, ĐT769 và QL51. Tôi được báo cáo, khi đi vào vận hành, mỗi ngày chỉ có khoảng trên 100 xe vận chuyển bauxite đi qua Đồng Nai. Số lượng này xem ra không nhiều, nhưng đúng là xe quá dài, cồng kềnh nên nếu đường chưa đảm bảo an toàn thì cần phải có kế hoạch điều chỉnh cho phù hợp. Chúng ta phát triển kinh tế là vì lợi ích chung, nhưng còn phải tính đến an sinh xã hội, phải đảm bảo cuộc sống của người dân được bình yên.”

Đáng quan tâm là khi phải sửa đường-cầu thì vốn làm ra sàn phẩm Bauxite phải tăng lên nên nhiều chuyên viên đã cảnh giác Nhà nước sẽ “lỗ vốn” nặng, nhưng Công ty Than và Khóang sản Việt Nam vẫn cãi sẽ có lời.

Nhưng sản phẩm Alumine sẽ bán cho ai, ngòai Trung Quốc là nước đã xây 2 Nhà máy cho Việt Nam ?

Trước lo ngại đem tài nguyên của Tổ tiến trao vào tay Tầu, Trương Tấn Sang, Chủ tịch Nước trấn an : ““Xin báo cáo rõ với bà con cử tri là Bộ Chính trị đã kết luận, không có chủ trương cho Trung Quốc khai thác bôxit ở Tây Nguyên. Sự có mặt của người Trung Quốc tại hai công trường xây dựng Nhà máy bôxit - nhôm Tân Rai, tỉnh Lâm Đồng và Nhà máy alumin Nhân Cơ, tỉnh Đắk Nông là bởi công ty của Trung Quốc trúng thầu xây dựng nhà máy ở đây. Khi công trình hoàn thành, công nhân Trung Quốc sẽ rút đi. Việc khai thác bôxit được giao cho Tập đoàn Công nghiệp than - khoáng sản VN thực hiện” (Nói tại Sài Gòn ngày 14-08 (2011)

Theo các nguồn tin từ Việt Nam thì cho đến nay, Nhà nước chưa cho biết sản phẩm Bauxite làm ra sẽ đem bán cho ai, nhưng Nhà văn Nguyên Ngọc đã được đài BBC trích dẫn hôm 17-8 (2011) nói rằng: “ Trong bài toán kinh tế này, theo ông Nguyên Ngọc, Trung Quốc là quốc gia duy nhất sẽ mua bauxite.”

“Người ta biết trong buôn bán nếu mà chỉ có độc quyền một người mua thì người bán sẽ bị bắt chẹt, mà ở đây hậu quả chưa thể lường được.”

BIỂN ĐÔNG

Ngoài lĩnh vực kinh tế, Trung Quốc còn đe doạ chiếm các đảo còn lại của Việt Nam ở Biển Đông, sau khi đã chiếm Hòang Sa năm 1974.

Nhà báo Tống Văn Công cũng cảnh giác : “Trong khi chưa đủ thời cơ dùng biện pháp quân sự xâm chiếm nước ta, Trung Quốc tận dụng sức mạnh mềm để biến nước ta thành chư hầu, thuộc địa kiểu mới.”

Vậy Việt Nam đã chuẩn bị chống đỡ ra sao ?

Lời phát biều của Trương Tấn Sang, Chủ tịch Nứớc tại Sài Gòn ngày 14-08 (2011) là tiêu biểu. : “Trao đổi cùng bà con cử tri về vấn đề chủ quyền biển đảo, Chủ tịch Nước khẳng định chủ quyền quốc gia, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng đối với bất kỳ quốc gia nào; quan điểm, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là giữ vững độc lập, chủ quyền lãnh thổ quốc gia, nhưng đồng thời cũng phải giữ vững môi trường hòa bình để phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chủ tịch Nước nhấn mạnh, để đồng thời làm được hai việc trên đòi hỏi phải có phương sách đúng và đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia thông qua đàm phán hòa bình và trên cơ sở luật pháp quốc tế.”

Nhưng trong thực tế, đe dọa của Trung Quốc ở Biển Đông càng ngày càng dồn dập khiến nhiều chuyên viên lo ngại chiến tranh có thể bùng nổ giữa Việt Nam và Trung Quốc trong tương lai gần.


THAM NHŨNG-CƯỚP QUYỀN DÂN

Ngòai những nguy cơ mất nước vào tay Tầu qua các dự án kinh tế và đe dọa ở Biển Đông, Việt Nam còn phải đối phó với “mặt trận bao vây kinh tế của Trung Quốc”.

Tình trung bình, mỗi năm Việt Nam bị nhập siêu hàng hoá từ Trung Quốc trên 10 tỷ Mỹ kim trong khi hàng lậu từ Tầu tràn ngập thị trường Việt Nam đang làm điêu đứng hàng hoá trong nước.

Trên biển, Hải quân Tầu không ngừng ngặn chận, tấn công các tầu đánh cá của ngư dân Việt Nam, và đang đe dọa thực hiện cuộc tìm kiếm dầu khí trong khu vực Trường Sa và trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Đối nội, sau 66 năm Cách mạng tháng Tám, đảng cán bộ, công chức đảng CSVN tham nhũng hơn bao giờ hết. Họ cũng đã phản bội lại di chúc của Hồ Chí Minh (công bố ngày 10-5-1969) căn dặn rằng : “ Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.”

Đảng cũng đã không thực hiện lời căn dặn của họ Hồ nói “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và vǎn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.”

Ngòai ra đảng CSVN cũng đã vi phạm các điều ghi trong Hiến pháp 1992, khi không thật lòng làm theo Điều 2 nói rằng: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức.”

Ðiều 3 : “ Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.”

Quan trọng hơn, đảng này còn cướp mất quyền tự quyết của dân khi tự cho mình quyền cai trị độc tôn, độc đảng như ghi trong Ðiều 4 : “Ðảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.”

Như vậy, sau 66 năm có Cuộc Cách mạng tháng Tám mà đảng tự cho mình đã lãnh đạo thành công, đại đa số nhân dân vẫn phải sống trong tình trạng đói nghèo và đất nước tiếp tụt hậu trước đe dọa mất còn với Trung Quốc.

Và điều mơ ước “Không gì qúy hơn độc lập tự do” của Hồ Chí Minh vẫn còn là giấc mộng hão huyền như khi ông ta còn sống. -/-

(19-8-2011)

gửi Dân Làm Báo

Không có nhận xét nào: