Việt Nam hiện nay đang thiếu nhiều thứ. Thiếu tiền. Thiếu kỹ thuật. Thiếu cơ sở hạ tầng. Thiếu công nhân có tay nghề cao. Thiếu trí thức độc lập và có khả năng sáng tạo. Thiếu sự đoàn kết. Thiếu chiến lược. Thiếu đồng minh. Vân vân. Nhưng cái thiếu quan trọng nhất, theo tôi, chính là thiếu lãnh đạo.Trong tiếng Việt, chữ “lãnh đạo” có thể được hiểu theo cả hai nghĩa: người lãnh đạo (leader) và sự lãnh đạo (leadership). Dù hiểu theo nghĩa nào thì Việt Nam cũng thiếu.
Trên nguyên tắc, Việt Nam được sự lãnh đạo của đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản có trên ba triệu đảng viên. Ba triệu đảng viên ấy được sự lãnh đạo của hai trăm ủy viên Trung ương. Hai trăm ủy viên ấy lại được sự lãnh đạo của 14 ủy viên Bộ chính trị. Trong 14 ủy viên Bộ chính trị, bốn người có quyền lực nhất là Tổng bí thư, Thủ tướng, Chủ tịch nước và Chủ tịch Quốc Hội (không kể Thường trực Ban bí thư vốn thường ở phía sau hậu trường). Trong số bốn người đó, hầu như không ai nổi bật hẳn lên về tài lãnh đạo. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thì chỉ nổi tiếng là “lú”; từ lúc lên làm Tổng bí thư đến nay, chưa nói được một câu nào có vẻ có viễn kiến.
Nói theo Trương Duy Nhất, một nhà báo trong nước: “để ý mãi thấy ông Trọng cũng chẳng có ấn tượng gì. Hết ở trường đảng (học viện Hồ Chí Minh), đến Bí thư Hà Nội, Chủ tịch Quốc hội rồi Tổng Bí thư, ông Trọng vẫn nhàn nhạt, tròn trịa và… nhu mì như một ông giáo làng.” Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng thì chỉ nổi tiếng là hay nói bậy. Nói bậy nhiều đến nỗi có người làm cả một bộ sưu tập: “Những câu nói bất hủ của ngài Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng (Xem ở đây). Ông Nguyễn Tấn Dũng thì thỉnh thoảng được báo chí lề phải ở trong nước khen về tài quản lý. Nhưng nhiệm kỳ năm năm đầu tiên của ông thì lại đầy sai lầm khiến số công ty quốc doanh bị phá sản, vật giá và lạm phát cũng như nợ nần quốc gia đều tăng vọt. Chỉ có Trương Tấn Sang, chủ tịch nhà nước, có những phát ngôn nghe được. Về tệ nạn tham nhũng. Về chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Về việc khai thác bauxite và số công nhân Trung Quốc làm việc phi pháp ở Việt Nam. Nhưng với cương vị chủ tịch nước, một hư vị, không ai tin tưởng là ông có thể làm được việc gì.
Vấn đề nghiêm trọng nhất ở giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay, như nhiều nhà báo đã nêu lên, là dường như ai cũng… khiêm tốn một cách quá đáng. “Khiêm tốn” đến độ không dám nghĩ đến “dấu ấn cá nhân”. Bộ trưởng không dám nghĩ đến “dấu ấn cá nhân”. Tổng bí thư cũng không dám nghĩ đến “dấu ấn cá nhân”. Mỗi người, dù mang danh nghĩa là lãnh đạo, vẫn khiêm tốn đóng vai những cán bộ vô hình trong một guồng máy vô cảm. Chính họ, chứ không phải ai khác, từ chối vai trò lãnh đạo của họ.
Đó chính là một bất hạnh lớn nhất cho dân tộc Việt Nam trong thời điểm hiện nay.
Có thể nói, hiếm khi nào Việt Nam lại cần lãnh đạo như bây giờ. Bởi những thử thách lớn và nghiêm trọng nhất của Việt Nam hiện nay không phải là vấn đề kinh tế hay xã hội, ở đó, người ta chỉ cần tài năng quản lý. Việt Nam còn bị thử thách cả về chính trị, trong đó có vấn đề nghiêm trọng và khẩn cấp nhất là vấn đề chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Nói đến lãnh đạo, người ta nghĩ ngay đến chính sách. Một nhà lãnh đạo giỏi không phải là người giỏi xử lý các công việc cụ thể. Mà phải là người có những chính sách sáng suốt và hiệu quả. Đặc điểm nổi bật của chính sách là tầm chiến lược để, thứ nhất, nó có giá trị trong dài hạn; và thứ hai, có thể định hướng mọi hoạt động của chính phủ. Ở Việt Nam hiện nay, những cái gọi là chính sách nếu không phải là những câu khẩu hiệu cũ kỹ và rỗng tuếch thì cũng chỉ là những vấn đề vụn vặt. Chính vì thế, lắng nghe diễn văn nhậm chức nhiệm kỳ 2 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhà báo Huy Đức, từ trong nước, mới than phiền là ông Nguyễn Tấn Dũng “làm Thủ tướng tới nhiệm kỳ thứ hai mà cũng không kiếm được người viết diễn văn biết cách phân biệt sự khác nhau trong ngôn ngữ của một chuyên viên cấp vụ với ngôn ngữ của một chính trị gia ở hàng nguyên thủ.”
Chính sách quan trọng, nhưng trong vấn đề lãnh đạo, có một khía cạnh khác còn quan trọng hơn cả chính sách: niềm tin. Nền tảng của các chính sách lớn, có tầm chiến lược, liên quan không phải đến hiện tại mà còn tương lai một nước, không phải là vấn đề lý lẽ. Mà còn là ở niềm tin. Niềm tin được bộc lộ chủ yếu là ở các tự sự (narrative) mà nhà lãnh đạo dựng lên để tập hợp và để thuyết phục dân chúng.
Xin nói ngay, khái niệm “tự sự” gần đây rất phổ biến không phải chỉ trong lãnh vực nghiên cứu văn học mà còn cả trong nhiều lãnh vực khác, kể cả chính trị. Tự sự được hiểu theo nghĩa thông thường là một câu chuyện kể trong đó các sự kiện được nối kết với nhau một cách chặt chẽ. Trước, người ta có thói quen cho việc tạo dựng các tự sự là công việc của giới cầm bút, chủ yếu là các nhà viết tiểu thuyết. Sau, người ta mới phát hiện không có nhà chính trị nào có thể thoát khỏi sự tự. Tự sự có tác dụng làm cụ thể hóa các niềm tin của người lãnh đạo, qua đó, tạc khắc bức chân dung của nhà lãnh đạo ấy trong trí tưởng tượng và ký ức của quần chúng.
Gần đây, xuất hiện trên báo chí tiếng Anh, ở Mỹ cũng như ở Úc, nhiều người chê Tổng thống Barack Obama là thiếu khả năng, trong đó, khiếm khuyết quan trọng nhất là khả năng xây dựng các tự sự để bày tỏ và cụ thể hóa các niềm tin của ông. Ai cũng công nhận là Obama thông minh, uyên bác và có khiếu hùng biện. Ông viết hay. Ông nói cũng hay. Nhưng cái hay ấy thiên về lý chứ không phải là tự sự. Làm Tổng thống Mỹ đã hơn hai năm rưỡi, nhưng phần lớn dân chúng Mỹ vẫn không biết ông thực sự tin gì và, quan trọng hơn, muốn nước Mỹ trở thành một nước như thế nào trên thế giới.
Những lời phê phán kiểu như vậy cũng đã từng xuất hiện khá nhiều ở Úc trước đây và hiện nay. Trước đây, người ta chê Thủ tướng Kevin Rudd là nói quá nhiều mà lại cung cấp quá ít tự sự, biện bác quá nhiều mà lại không cho thấy niềm tin chính của ông đối với tương lai nước Úc. Thủ tướng Úc trước đó, John Howard, ngược lại, tuy bị nhiều người, đặc biệt giới trí thức, ghét, nhưng, với đa số quần chúng, lại được tin cậy, do đó, trở thành một trong những chính trị gia thành công nhất trong lịch sử nước Úc: làm Thủ tướng đến 11 năm. Tại sao? Câu trả lời được nghe nhiều nhất: Người ta có thể không đồng ý với ông, nhưng biết rõ là ông tin và muốn những điều gì cho đất nước.
Đó cũng chính là những điều mà giới lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay thiếu nhất. Nếu không muốn nói: hoàn toàn thiếu. Với Hồ Chí Minh hay Lê Duẩn, chúng ta biết họ nghĩ gì và tin tưởng điều gì. Với giới lãnh đạo sau này, đặc biệt hiện nay, thì không. Hoàn toàn không.
Trừ một chuyện: Tiền bạc. Nói như nhà báo Huy Đức, cụ thể hơn, nỗi bận tâm về “nhận bao thơ” và chia “phần trăm” cũng như về “lượng đất đai, cổ phiếu mà các thành viên trong gia đình nắm được”.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Blog Nguyễn Hưng Quốc.
Hình: ASSOCIATED PRESS |
Nói theo Trương Duy Nhất, một nhà báo trong nước: “để ý mãi thấy ông Trọng cũng chẳng có ấn tượng gì. Hết ở trường đảng (học viện Hồ Chí Minh), đến Bí thư Hà Nội, Chủ tịch Quốc hội rồi Tổng Bí thư, ông Trọng vẫn nhàn nhạt, tròn trịa và… nhu mì như một ông giáo làng.” Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng thì chỉ nổi tiếng là hay nói bậy. Nói bậy nhiều đến nỗi có người làm cả một bộ sưu tập: “Những câu nói bất hủ của ngài Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng (Xem ở đây). Ông Nguyễn Tấn Dũng thì thỉnh thoảng được báo chí lề phải ở trong nước khen về tài quản lý. Nhưng nhiệm kỳ năm năm đầu tiên của ông thì lại đầy sai lầm khiến số công ty quốc doanh bị phá sản, vật giá và lạm phát cũng như nợ nần quốc gia đều tăng vọt. Chỉ có Trương Tấn Sang, chủ tịch nhà nước, có những phát ngôn nghe được. Về tệ nạn tham nhũng. Về chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Về việc khai thác bauxite và số công nhân Trung Quốc làm việc phi pháp ở Việt Nam. Nhưng với cương vị chủ tịch nước, một hư vị, không ai tin tưởng là ông có thể làm được việc gì.
Vấn đề nghiêm trọng nhất ở giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay, như nhiều nhà báo đã nêu lên, là dường như ai cũng… khiêm tốn một cách quá đáng. “Khiêm tốn” đến độ không dám nghĩ đến “dấu ấn cá nhân”. Bộ trưởng không dám nghĩ đến “dấu ấn cá nhân”. Tổng bí thư cũng không dám nghĩ đến “dấu ấn cá nhân”. Mỗi người, dù mang danh nghĩa là lãnh đạo, vẫn khiêm tốn đóng vai những cán bộ vô hình trong một guồng máy vô cảm. Chính họ, chứ không phải ai khác, từ chối vai trò lãnh đạo của họ.
Đó chính là một bất hạnh lớn nhất cho dân tộc Việt Nam trong thời điểm hiện nay.
Có thể nói, hiếm khi nào Việt Nam lại cần lãnh đạo như bây giờ. Bởi những thử thách lớn và nghiêm trọng nhất của Việt Nam hiện nay không phải là vấn đề kinh tế hay xã hội, ở đó, người ta chỉ cần tài năng quản lý. Việt Nam còn bị thử thách cả về chính trị, trong đó có vấn đề nghiêm trọng và khẩn cấp nhất là vấn đề chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Nói đến lãnh đạo, người ta nghĩ ngay đến chính sách. Một nhà lãnh đạo giỏi không phải là người giỏi xử lý các công việc cụ thể. Mà phải là người có những chính sách sáng suốt và hiệu quả. Đặc điểm nổi bật của chính sách là tầm chiến lược để, thứ nhất, nó có giá trị trong dài hạn; và thứ hai, có thể định hướng mọi hoạt động của chính phủ. Ở Việt Nam hiện nay, những cái gọi là chính sách nếu không phải là những câu khẩu hiệu cũ kỹ và rỗng tuếch thì cũng chỉ là những vấn đề vụn vặt. Chính vì thế, lắng nghe diễn văn nhậm chức nhiệm kỳ 2 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhà báo Huy Đức, từ trong nước, mới than phiền là ông Nguyễn Tấn Dũng “làm Thủ tướng tới nhiệm kỳ thứ hai mà cũng không kiếm được người viết diễn văn biết cách phân biệt sự khác nhau trong ngôn ngữ của một chuyên viên cấp vụ với ngôn ngữ của một chính trị gia ở hàng nguyên thủ.”
Chính sách quan trọng, nhưng trong vấn đề lãnh đạo, có một khía cạnh khác còn quan trọng hơn cả chính sách: niềm tin. Nền tảng của các chính sách lớn, có tầm chiến lược, liên quan không phải đến hiện tại mà còn tương lai một nước, không phải là vấn đề lý lẽ. Mà còn là ở niềm tin. Niềm tin được bộc lộ chủ yếu là ở các tự sự (narrative) mà nhà lãnh đạo dựng lên để tập hợp và để thuyết phục dân chúng.
Xin nói ngay, khái niệm “tự sự” gần đây rất phổ biến không phải chỉ trong lãnh vực nghiên cứu văn học mà còn cả trong nhiều lãnh vực khác, kể cả chính trị. Tự sự được hiểu theo nghĩa thông thường là một câu chuyện kể trong đó các sự kiện được nối kết với nhau một cách chặt chẽ. Trước, người ta có thói quen cho việc tạo dựng các tự sự là công việc của giới cầm bút, chủ yếu là các nhà viết tiểu thuyết. Sau, người ta mới phát hiện không có nhà chính trị nào có thể thoát khỏi sự tự. Tự sự có tác dụng làm cụ thể hóa các niềm tin của người lãnh đạo, qua đó, tạc khắc bức chân dung của nhà lãnh đạo ấy trong trí tưởng tượng và ký ức của quần chúng.
Gần đây, xuất hiện trên báo chí tiếng Anh, ở Mỹ cũng như ở Úc, nhiều người chê Tổng thống Barack Obama là thiếu khả năng, trong đó, khiếm khuyết quan trọng nhất là khả năng xây dựng các tự sự để bày tỏ và cụ thể hóa các niềm tin của ông. Ai cũng công nhận là Obama thông minh, uyên bác và có khiếu hùng biện. Ông viết hay. Ông nói cũng hay. Nhưng cái hay ấy thiên về lý chứ không phải là tự sự. Làm Tổng thống Mỹ đã hơn hai năm rưỡi, nhưng phần lớn dân chúng Mỹ vẫn không biết ông thực sự tin gì và, quan trọng hơn, muốn nước Mỹ trở thành một nước như thế nào trên thế giới.
Những lời phê phán kiểu như vậy cũng đã từng xuất hiện khá nhiều ở Úc trước đây và hiện nay. Trước đây, người ta chê Thủ tướng Kevin Rudd là nói quá nhiều mà lại cung cấp quá ít tự sự, biện bác quá nhiều mà lại không cho thấy niềm tin chính của ông đối với tương lai nước Úc. Thủ tướng Úc trước đó, John Howard, ngược lại, tuy bị nhiều người, đặc biệt giới trí thức, ghét, nhưng, với đa số quần chúng, lại được tin cậy, do đó, trở thành một trong những chính trị gia thành công nhất trong lịch sử nước Úc: làm Thủ tướng đến 11 năm. Tại sao? Câu trả lời được nghe nhiều nhất: Người ta có thể không đồng ý với ông, nhưng biết rõ là ông tin và muốn những điều gì cho đất nước.
Đó cũng chính là những điều mà giới lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay thiếu nhất. Nếu không muốn nói: hoàn toàn thiếu. Với Hồ Chí Minh hay Lê Duẩn, chúng ta biết họ nghĩ gì và tin tưởng điều gì. Với giới lãnh đạo sau này, đặc biệt hiện nay, thì không. Hoàn toàn không.
Trừ một chuyện: Tiền bạc. Nói như nhà báo Huy Đức, cụ thể hơn, nỗi bận tâm về “nhận bao thơ” và chia “phần trăm” cũng như về “lượng đất đai, cổ phiếu mà các thành viên trong gia đình nắm được”.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Blog Nguyễn Hưng Quốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét