Lão Ngoan Đồng – Nuóc đa mất, nhà đa tan , gia đinh ly tán ! Ý nghi nầy in sâu vào trong trí não của những nguời đang lênh đenh trên biển cả, trong những chiếc thuyền nhỏ bé mong manh, phú thác mạng sống của mình cho vận mệnh rui may , những mong thoát khỏi ngục tù của những nguời cộng sản từ miền bắc, đang xây cất trên toàn cõi quê huong yêu dấu.
Trên đuờng trốn chạy, lìa bỏ quê cha đất tổ, đa có hàng trăm ngàn nguời vùi thây trong biển cả, trong bụng cá, trong bàn tay sát nhân của bọn hải tặc khát máu. Cung có những nguời vuợt thoát bàng đuờng bộ, xuyên qua ngã Cambochia, Lào, và cung không ít nguời đa chết đói vì lạc đuờng, hoặc bị giết bởi bọn Miên cộng, Lào cộng. Số còn lại, hon 2 triệu nguời đa đến đuợc bến bờ tự do với hai bàn tay trắng, và có rất nhiều nguời bỏ lại sau lung những nguời thân yêu trong gia đinh, dòng họ. Hầu hết những thuyền nhân đó đa nói với các phái đoàn tiếp nhận định cu của các nuớc: “Thà chết trên biển cả còn hon sống trong chế độ của Việt cộng( tạm dịch: Rather die on the high sea than live under the Vietnamese communist regime). Điều đó đa nói lên cái ý chí liều chết để đi tìm TỰ DO.
Thãm cảnh đó đa làm cho thế giới bàng hoàng, xúc động. Họ đa gọi những nguòi trốn chạy khỏi quê huờng nầy bằng một biệt danh ,mà trong lịch sữ loài nguời chua từng có :“BOAT PEOPLE”(Thuyền Nhân).
Thảm cảnh đó khởi đầu vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày mà bọn cộng sản Việt Nam, từ miền Bắc,đa bất chấp hiệp định Paris 1973, với sự trợ gíúp của khối cộng sản quốc tế, đa tấn công và chiếm lảnh miền Nam, nuớc Việt Nam Cộng Hòa, với sự hững-hờ của thế giới không cộng sản.
Cái hận đa mất nuớc và cái hận đa bị đồng minh phản bội, đua đến cảnh nuớc mất nhà tan, gia đinh phân cách, chia ly, đa tạo nên sự thống hận trong lòng nguời dân Việt kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Từ đấy, chúng ta, những nguời Việt hải ngoại và kể cả đồng bào quốc nội, gọi ngày 30 tháng tu hàng năm là NGÀY QUỐC HẬN.
Không có từ ngữ nào để diển tả ngày đó chính xác hon từ ngữ Ngày Quốc hận . Nó diển tả không những đúng về mặt hiện thực mà còn đúng về mặt tâm linh. Ngày đó , đời sống của những con nguời Việt Nam trên toàn quốc đa bị thay đổi một cách toàn diện, từ tốt đẹp biến thành cùng khổ ; từ tuong lai trong sáng trở thành tâm tối, không có ngày mai. Trong lòng mỗi nguời đều bị đe nặng bởi nỗi niềm u uất , căm phẩn vì đang bị một lu nguời vong bản, tay sai của ngoại bang, dốt nát, tàn ác cai trị bằng chánh sách vô nhân nhứt trần gian. Đời sống của nguời Việt Nam không hon không kém gì với đời của một con vật : ngoan ngoản thì đuợc cho ăn, bằng không thì bị bỏ đói cho đến ngày tàn tạ.
Trong lòng mỗi con dân Việt, ai mà không nhớ đến ngày 30 tháng tu, ngày đổi đời đó ? Tuy nhiên, mỗi nguời nhớ đến nó một cách khác nhau.
Cái nhớ sâu sắc nhất, không bao giờ quên là tuổi thanh niên đa bị hủy hoại trong các nhà tù gọi là trại cải tạo. Những ruờng cột của Quốc Gia đa bi kềm hảm trong ngục tù khổ sai, ăn không đủ no, bệnh không thuốc chửa. Bọn nguời ác độc lợi dụng sức nguời hom hem yếu đuối đó, bắt họ đi làm muớn, làm thuê, làm những việc khổ sai, chúng lấy tiền bỏ vào những cái túi tham không đáy . Những nguời tù cải tạo đó, bị hành hạ không những trên thể xác, mà cả tinh thần của họ cung bị dày vò cả ngày lẫn đem, bằng những lời chuởi bới ,hâm dọa, kể cả những đon thù bằng đánh đập, biệt giam trong những thùng sắt ngột ngạt, nóng bỏng khi nắng lên, không cho nuớc uống, và còn nhiều truờng hợp đem nguời chống đối bọn chúng ra xử bắn tại noi đông nguời. Những hành động nầy, bọn cai tù tàn ác, gọi là những bài “ học chính trị“, do Bác và Đảng chủ truong đối với những nguời sa co, thất thế.
Những nguời tù luong tâm đó là ai ?
Họ là những chiến si Việt Nam Cộng Hòa, đa xả thân mình để bảo vệ phần đất miền Nam củaTổ Quốc, giữ gìn an ninh cho nguòi dân miền Nam đuợc sống một đời sống thanh bình, an cu lạc nghiệp ;
Họ là những công chức phục vụ cho chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa, để xây dựng một quốc gia hùng mạnh phú cuờng , có phần trội hon so với các nuớc lân bang nhu Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Thái Lan, Đại Hàn , Đai Loan;
Họ là những nhà tu bản đa góp công xây dựng nền kinh tế phồn thịnh cho nuớc Việt Nam Cộng Hoà;
Họ là những nguời trong ngành giáo dục, đa tận tụy và miệt mài với trách nhiệm mở mang trí óc cho những thanh thiếu niên, mong xây dựng nên một thế hệ kế tiếp, văn minh, thông thái hữu dụng cho quốc gia.
Những nguời tù luong tâm nầy đa bị buộc tội là đa phục vụ cho chánh quyền truớc, đa gíup đở cho “ Ngụy Quân, Ngụy Quyền” chống phá lại cách mạng của nhân dân(sic).
Ngoài những nguời đa bị bắt đi làm “tù cải tạo”, những nguời dân thuờng sống tại các đô thị cung bị đay đọa không kém. Họ đa bị ép buộc đi đến những noi hoang dã, thâm son cùng cốc, mà bọn cầm quyền ác ôn là nhà nuớc Việt Nam dân chủ cộng hòa (hiện giờ là cộng hòa xã hội chủ nghia Việt Nam), gọi là “vùng kinh tế mới”. Noi đây chỉ với hai bàn tay trắng, không thể nào tìm đuợc cách sinh nhai. Sau khi đuổi họ đi vùng kinh tế mới, “nhà nuớc” đa tịch thu tất cả tài sản, co ngoi của họ để phân phát cho những cán ngáo, đa có công với nhà nuớc trong viêc cuỡng chiếm miền Nam;
Ở nông thôn, không còn ai có quyền có ruộng đất, dù rằng những mảnh đất do ông cha từ nhiều đời truớc để lại cho con cháu. Tất cả ruộng đất đều quy về “hợp tác xả“ Nguời nông dân canh tác trên những mảnh đất ruộng vuờn đó, đuợc thu hoạch do quyết định của bọn đầu sỏ xã ấp, bằng một chính sách gọi là bảng chấm công. Ai nịnh bợ hay theo phe chúng thì đuợc chia nhiều hon. Do vậy, đời sống của nguời ở nông thôn thiếu thốn rất trầm trọng, có noi đa có nguời chết vì đói, mà điều nầy chua hề xảy ra trong lịch sử của miền Nam Việt Nam.
Tóm lại, sau khi bọn cuờng đạo cộng sản Việt Nam nhờ súng đạn của Trung cộng, của Liên sô, đa cuởng chiếm đuợc nuớc Việt Nam Cộng Hòa, thì toàn thể trên 26 triệu nguời dân miền Nam, bị cuớp giựt một cách trắng trợn, không khoan nhuợng,bị nhốt trong một nhà tù vi đại, đó là quê huong của mình, bị đay đọa vô cùng tàn ác, sống nhu một con thú không hon không kém.
Tình cảnh của nguời dân Việt Nam hiện nay, năm 2012, đa qua 37 năm, không khác gì ngày bắt đầu cuộc đổi đời 30 tháng 4 năm 1975. Có khác chăng là lối sống giàu sang, xa hoa, trụy lạc của những cán bộ Việt cộng và gia đinh họ. Còn nguời dân ngày càng bị đan áp mạnh mẽ hon, bằng những thủ đoạn, bằng những xão thuật nghề nghiệp, gian manh hon, ác độc hon.
Đa là nguời Việt Nam thì không ai có thể quên, trong lòng ai cung đang âm ỉ một nổi hận. Những kẻ nào quên đi là họ cố ý bị “bịnh quên” để đổi lấy những đồng tiền do bẩn, đẩm uớc máu của đồng bào quốc nội. Họ đa quên đi on nghia của quốc gia cuu mang họ nhu một nguời tỵ nạn. Họ đa quên đi lòng bao dung của cộng đồng tỵ nạn đa đum bọc , giúp đở họ, đến khi họ thành tài, nổi tiếng, thì vì họ xem đồng tiền lớn hon bánh xe trâu(câu nói khinh miệt của dân miền Nam) , họ phủi hết đi on nghia, trở lại hợp tác với kẻ thù, tiếp tay với bọn cộng phi, đan áp nguợc lại đồng bào của mình.
Để kết luận, cầu mong tất cả đồng bào Việt Nam hảy ghi nhớ, ngày Quốc Hận 30 tháng 4, bởi vì ngày đó là ngày mang đến nỗi hận xót xa cho cả nuớc, chúng ta hảy tuởng niệm đến quê huong đa mất đi, tuởng nhớ và tri on đến những chiến si Việt Nam cộng Hòa, đa hy sinh mạng sống để bảo vệ tự do cho quê huong và đồng bào. Hảy tuởng nhớ đến những nguời tỵ nạn kém may mắn đa chết trên đuờng đi tìm tự do. Và quan trọng nhất là hảy làm một vài việc gì đó mà mình có thể, để góp bàn tay với đồng bào quốc nội, đập nát chế độ Việt cộng , để sớm gây dựng lại một Nuớc Việt Nam Tự Do Nhân Bản và Phồn Vinh, để cho ngày quốc hận trở thành không còn hận nữa, mà chỉ còn là ngày đen tối nhất đuợc ghi lại trong lịch sử Việt Nam.
www.aotrangoi.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét