Nguyễn Huy Hùng
Trong suốt hơn 2 Thập Niên cuối Thế kỷ 20 cho đến nay, mỗi lần mốc thời gian 30 tháng 4 Dương lịch đến, là một lần nhân dân các nước Tự do Dân chủ trên toàn Thế giới lại phải ngạc nhiên tìm hiểu, không biết tại sao những người cùng dòng giống Tiên Rồng Việt Nam đang sống định cư nơi hải ngoại và trên đất nước Việt Nam, lại bộc lộ hai thái cực VUI =/= BUỒN đối nghịch hẳn nhau? Ở trong nước thì ồn ào kiêu ngạo kỷ niệm Ngày Đại Thắng, còn nơi hải ngoại lại xót xa tổ chức mít tinh tưởng nhớ Ngày Quốc Hận???
Nhưng kể từ ngày 27 tháng 12 năm 2001, sau khi đọc các bản tin bằng Anh ngữ của Thông tấn xã Trung Cộng tại Bắc Kinh và của hãng tin Nhật Bản từ Nam Ninh đưa lên mạng Internet toàn cầu, loan báo sự kiện 2 phái đoàn ngoại giao đại diện cho các bạo quyền Trung Cộng và Việt Cộng sát cánh bên nhau, hân hoan tổ chức Lễ đặt cột mốc đầu tiên tại Móng Cái, để chính thức định lại ranh giới giữa 2 nước Việt Nam và Trung Hoa.
Rồi những ngày tiếp theo, các Cộng đồng người Việt định cư trên toàn Thế giới tổ chức liên tiếp những cuộc biểu tình, chống đối và lên án Đảng và Bạo quyền Việt Cộng đã DÂNG ĐẤT HIẾN BIỂN của Tổ quốc Việt Nam cho quan thầy Trung Cộng, để được quan Thầy che chở yểm trợ cho Đảng đứng vững mà tiếp tục đàn áp bóc lột nhân dân Việt Nam bằng độc đảng chuyên chính tập quyền toàn trị.
Đồng thời, một số nhân sĩ dũng cảm ở trong nước đang dấn thân đấu tranh đòi Tự do Dân chủ Nhân quyền cho Dân tộc Việt Nam, cũng can đảm trình bầy quan điểm của mình để trả lời các cuộc phỏng vấn (giờ chương trình Việt ngữ chuyển qua các làn sóng điện về Việt Nam hàng ngày) của các đài phát thanh lớn ngoại quốc như BBC (Anh), RFI (Pháp), và RFA (Á Châu Tự do của Hoa Kỳ) về các vấn đề biên giới trên đất liền và hải phận trong Vịnh Bắc phần giữa Việt Nam và Trung Hoa.
Và gần hơn nữa, trong năm 2004, Quốc Hội Bù Nhìn (đảng cử dân bầu) của Cộng hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam đã hội họp theo lệnh của Ban Bí Thư Trung Ương Đảng Việt Cộng, để chính thức phê chuẩn các Hiệp Ước về ranh giới đất liền và hải phận do lãnh tụ đại diện Đảng và bạo quyền Việt Cộng đã lén lút ký với Trung Cộng từ mấy năm về trước, mà cả “Quốc Hội Bù Nhìn” lẫn “Nhân Dân Làm Chủ” đều không hề được Đảng và Nhà Nước thông báo nên chẳng hay biết gì.
Nhờ thế, mọi người mới vỡ lẽ và hiểu rõ ràng lý do tại sao cùng là người Việt Nam, cùng tổ chức kỷ niệm ngày 30 tháng 4 Dương lịch hàng năm, nhưng lại để bầy tỏ hai niềm tâm sự VUI =/= BUỒN trái ngược hẳn nhau như vậy.
NHỮNG AI HỚN HỞ KIÊU NGẠO KỶ NIỆM NGÀY 30-4-1975 LÀ NGÀY ĐẠI THẮNG?
Chỉ có bè lũ khoảng hơn 2 triệu đảng viên Việt Cộng buôn dân bán nước tay sai của Quốc tế Cộng sản nay đã tan rã, và thiểu số thân Cộng theo đóm ăn tàn, cùng những người không thuộc dòng giống Việt Nam nhẹ dạ cả tin, bị bộ máy tuyên truyền của Việt Cộng gian ngoan xảo trá lừa bịp suốt từ khi Thế giới Đại chiến Hai chấm dứt đến nay, mới vui mừng đón chào ngày 30 tháng 4 Dương lịch hàng năm là ngày kỷ niệm công lao GIẢI PHÓNG MIỀN NAM THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC của Việt Cộng mà thôi.
NHỮNG AI BUỒN HẬN XÓT XA CHO DÂN TỘC VIỆT NAM
VÌ CÁI MỐC THỜI GIAN 30 THÁNG 4 NĂM 1975
Đó là quảng đại quần chúng Việt Nam đang sống ở trong nước, và những người đã phải bỏ tất cả của cải và rời đất nước ra đi định cư tỵ nạn Cộng sản tại các nước Tự do Tư Bản trên toàn Thế giới.
Đó là các Chiến sĩ Việt Nam Cộng hoà và các Chiến sĩ thuộc Thế giới Tự do tiếp tay hỗ trợ nhân dân Việt Nam Cộng Hoà, đã xả thân đứng nơi tuyến đầu chiến đấu chống làn sóng xâm lăng của Cộng sản Quốc tế, do Liên Xô Nga (nay đã tan rã) và Trung Cộng điều khiển bọn tay sai Việt Cộng làm tuyến tiền tiêu xung phong hy sinh xương máu dân tộc Việt để xâm lấn bành trướng, nhằm đạt mục tiêu tối hậu của chúng là thống trị toàn Thế giới bằng Chế độ Vô sản Chuyên chính dã man tàn bạo.
Đó là những người yêu chuộng Tự do Dân chủ Nhân quyền trên Thế giới, đã có kinh nghiệm đau thương sống trong các nước theo chế độ Cộng sản, biết rõ manh tâm tàn bạo vô nhân đạo của Việt Cộng “đồng hội đồng thuyền” với bọn Cộng sản Quốc tế.
Và đó là những Đảng viên Việt Cộng kỳ cựu đã đi theo Hồ Chí Minh phục vụ cho Đảng Việt Cộng và Cộng sản Quốc tế từ hơn 70 năm qua, nay đã thức tỉnh, nhờ “nằm trong chăn mới biết chăn có rận” thấy được rõ mặt thật gian manh xảo quyệt vô xỉ vô luân của bọn Việt Cộng, nên đã và đang can đảm công khai lên tiếng vạch trần những sai trái tội ác “Trời không tha, Đất không dung” của Hồ Chí Minh và đồng bọn Việt Cộng suốt mấy chục năm qua, cũng như kêu gọi mọi người cùng dũng cảm vùng lên sát cánh bên nhau quyết liệt tranh đấu chống Cộng Đảng và Bạo quyền Việt Cộng, để giành lại các quyền Tự do Dân chủ Dân sinh Công bằng Bình đẳng cho toàn thể Dân tộc Việt Nam.
Tất cả những người này buồn hận xót xa, vì ngày 30 tháng 4 năm 1975 là mốc thời gian bất hạnh đen tối nhất cho toàn Dân tộc Việt nam. Suốt từ Ải nam Quan cho đến Mũi Cà mâu, mọi người bị đồng loạt đắm chìm dưới sự cai trị chuyên chính, độc đảng tàn bạo, độc tài vô nhân đạo của bọn Việt Cộng vong nô hiếu sát, theo chủ nghiã Cộng sản Tam Vô (vô Gia đình, vô Tổ quốc, vô Tôn giáo).
Do đó, 30 tháng 4 năm 1975 phải coi là ngày Việt Công xâm lăng đặt ách đô hộ chuyên chính vô sản toàn trị lên đầu lên cổ người dân miền Nam Việt Nam, chớ không phải là giải phóng miền Nam thống nhất đất nước để đem lại ấm no hạnh phúc cho đồng bào như chúng thường tuyên truyền lừa bịp xảo trá.
Sau đây là những sự kiện chứng minh:
Sau khi 4 bên gồm Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hoà, Việt Cộng Bắc Việt, và tay sai Chính phủ Lâm thời Cộng hoà miền Nam (hậu thân của Mặt trận giải phóng miền Nam do Việt Cộng nặn ra từ những năm cuối Thập niên 1950 và đầu Thập niên 1960 tại miền Nam) ký kết Hiệp Ước đình chiến tại Paris vào ngày 27 tháng 1 năm 1973 tái lập hoà bình tại Việt Nam, để tiến tới việc hoà hợp hoà giải dân tộc và tổ chức bầu cử cho toàn dân miền Nam tự do lựa chọn một cách dân chủ chế độ chính trị, thì Hoa Kỳ và các Đồng minh hỗ trợ Việt Nam Cộng hoà bảo vệ miền Nam (chống lại cuộc chiến xâm lăng do Việt Cộng miền Bắc phát động từ cuối năm 1959 do Liên Xô và Trung Cộng yểm trợ thúc đẩy) đã nghiêm chỉnh thi hành, rút hết quân ra khỏi miền Nam.
Ngược lại, Việt Cộng miền Bắc lại được sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn của Liên Xô Nga và Trung Cộng về mọi mặt trang bị đạn dược vũ khí tối tân và cố vấn chuyên nghiệp, công khai vi phạm Hiệp Ước, xua quân vượt Vĩ tuyến 17 và từ các hậu cứ đặt trên đất các nước Cộng sản Lào, Campuchia, tấn công lấn đất giành dân của Việt Nam Cộng Hoà ngày một mạnh mẽ hơn. Cuộc chiến quy mô ồ ạt hung bạo sau cùng phát khởi từ cuối năm 1974, kéo dài đến ngày 30-4-1975 thì Việt Cộng Bắc Việt làm chủ toàn thể miền Nam Việt Nam.
Ngay sau khi chiếm được toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam, Việt Cộng đã theo lệnh các quan thầy Liên Xô và Trung Cộng thi hành chính sách tiêu diệt giai cấp và bần cùng hoá nhân dân miền Nam bằng nhiều hình thức, để cả 2 miền Nam Bắc cùng nghèo đói như nhau mà cùng “tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên Xã hội Chủ nghiã”:
1.- Trả thù phe thua trận:
Trục xuất tất cả thương bệnh binh Quân lực Việt Nam Cộng hoà, không cần quan tâm đến hiện trạng bệnh tình nặng nhẹ cơ thể còn nguyên vẹn đi đứng được, hay đã bị giải phẫu mất tay chân đui mù đang nằm liệt giường, phải ra khỏi các cơ sở Y tế, Quân Y Viện, Tổng Y Viện, Dân Y Viện trên toàn miền Nam Việt Nam ngay tức khắc.
Bắt tất cả những người (cả Nam lẫn Nữ) đã từng công khai chiến đấu chống Cộng sản bằng súng đạn hoặc bằng bút mực, gồm: quân nhân các cấp thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hoà, viên chức hành chánh, giáo chức, truyền thông báo chí, văn nghệ sĩ, tu sĩ có tư tưởng lập trường không chấp nhận ý thức hệ Cộng sản, và tất cả các doanh gia thương xí nghiệp tư nhân cũng bị coi là Tư sản mại bản, đem giam cầm đầy đọa trong các trại tập trung để cải tạo tư tưởng, bằng các bài học nhồi sọ thực hiện đấu tranh giai cấp đến khủng hoảng tinh thần trở thành ngơ ngẩn khùng điên, bằng lao động khổ sai đến kiệt sức chết vì thiếu ăn, bệnh hoạn không thuốc chữa.
Đây là chính sách tiêu diệt các giai cấp đối nghịch với tập đoàn Việt Cộng, một hình thức tù không án, lưu đầy hành hạ cực nhục cả tinh thần lẫn vật chất cho chết lần mòn nơi rừng thiêng nước độc (theo di chúc để lại trước khi chết của Hồ Chí Minh, học đòi của các quan thầy Stalin, Mao Trạch Động), tàn bạo hiểm độc gấp trăm ngàn lần hơn cả thời Thực dân Pháp đô hộ.
2.- Cướp nhà và đồ đạc gia dụng.
Buộc dân chúng thành thị, đặc biệt là vợ con những người liệt kê trong trường hợp trên đây, phải rời bỏ nhà riêng tại thành phố cho nhà nước quản lý (chia cho các cán bộ của Đảng) mà bồng bế nhau với 2 bàn tay trắng vào rừng sâu và các vùng đầm ngập xình lầy, khai phá thành lập các “khu kinh tế mới” theo chính sách san bằng giai cấp, diệt Tư sản kẻ thù của giai cấp Vô sản. Chính sách này nhằm tiến tới việc xây dựng một xã hội mới “xã hội chủ nghiã”, không ai còn tư hữu, tất cả là của tập thể do Nhà Nước tập trung quản lý, khẩu phần ăn hàng ngày và mọi nhu cầu khác cho mỗi người được quy định tùy theo kết quả lao động cá nhân đạt được do Hợp tác xã ghi công hàng ngày. Đây là chính sách cai trị bằng Chuyên chính Vô sản (điều khiển cưỡng bức người khác phải tuân lệnh bằng áp lực bao tử và cường quyền) rập khuôn theo Trung Cộng và các nước Cộng sản do Liên Xô Nga lãnh đạo. Con người chỉ là công cụ lao động (nô lệ) của Nhà nước Xã hội Chủ nghiã (tập đoàn chủ nhân ông phong kiến thực dân quân phiệt mới).
3.- Tước đoạt tài sản của quảng đại quần chúng, bằng các chiến dịch “đánh tư sản mại bản”, quốc hữu hoá các công ty doanh thương tư nhân, xí nghiệp tư nhân, các Trường Tư thục, các đất đai cơ sở xã hội y tế và dòng tu riêng của các Tôn giáo, giải tán các chợ và các tiệm buôn bán lẻ tư nhân, lấy tất cả ruộng đất tư của điền chủ và nông dân, để tập trung vào các Hợp tác xã do Nhà Nước quản trị chi phối độc quyền. Tất cả tiền và quý kim của tư nhân gửi trong các Ngân hàng Công cũng như Tư đều bị tước đoạt không hoàn trả, dù có đủ giấy tờ chứng minh là sở hữu chủ.
4.- Tiêu hủy tất cả các loại văn hoá phẩm (giáo khoa, lịch sử, văn học, nghệ thuật, ca nhạc, khoa học, khảo cứu kỹ thuật…) viết bằng Việt ngữ và ngoại ngữ đang lưu hành tại miền Nam Việt Nam từ nhiều thời đại qua, mà Việt Cộng gán cho cái tội là “văn hoá phẩm phản động đồi trụy” của chế độ Ngụy để lại. Nếu ai lưu trữ sẽ bị đưa ra truy tố trước “Toà án nhân dân” xét xử và gán cho tội “phản động” phải đi cải tạo tư tưởng trong các trại tập trung. Chính sách tiêu hủy các sản phẩm văn hoá này được Việt Cộng phát động thực hiện bắt đầu từ ngày 20-8-1975 tại toàn miền Nam Việt Nam, đúng hệt chính sách đốt sách giết trí thức của Tần Thỉ Hoàng thời phong kiến xa xưa ở bên Tầu, và của Mao Trạch Đông thực hiện trên đất nước Trung Hoa trong hậu bán Thế kỷ thứ 20.
5.- Cưỡng bức cướp tiền để toàn dân trở thành vô sản.
Bất thần vào sáng sớm ngày 18-9-1975, Nhà Nước Việt Cộng ban hành lệnh đổi tiền “khẩn trương” và phải hoàn tất nội trong một ngày trên cả nước. Giá biểu quy định một đồng bạc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà miền Bắc (tờ giấy lộn in hình Hồ Chí Minh) không được một nước nào trên Thế giới công nhận, lấy 500 đồng bạc Việt Nam Cộng Hoà tại miền Nam được Ngân Hàng Thế Giới công nhận vì có vàng bảo chứng, và đang được lưu hành có giá trị hối đoái với Tiền tệ của tất cả các nước trên khắp Thế giới.
Số tiền mỗi gia đình (hộ) mang đến “đăng ký” đổi tại Ngân Hàng không bị hạn chế, nhưng chỉ được nhận lại tối đa là 200 đồng tiền Hồ. Số sai biệt còn lại Nhà Nước cất giữ giùm. Sau này, mỗi khi có nhu cầu cần dùng bao nhiêu thì phải xin Phường Xã nơi mình cư ngụ cấp giấy chứng nhận đem nộp, mới được cứu xét cho lãnh ra hay không. Nhưng thực tế, không những chẳng ai lấy lại được đồng nào, mà lại còn bị theo dõi điều tra vặn hỏi buộc phải khai báo nguồn gốc từ đâu mà có… Hậu quả sau cùng là “tiền mất tật mang”, đi tập trung cải tạo vì một tội phản động nào đó, mà bản thân không hề làm.
6.- Vơ vét tẩu tán của công.
Tất cả máy móc dụng cụ của cải kho tàng của các Công sở hành chánh, các đơn vị Quân lực Việt Nam Cộng hoà, đều bị bọn thủ lãnh Quân đội và Cán bộ hành chánh của Việt Cộng xâm lăng chiếm đoạt làm của riêng và chuyển tải về miền Bắc. Đặc biệt mấy chục tấn vàng và rất nhiều tiền mặt lưu trữ tại kho Ngân khố Trung Ương của Việt Nam Cộng hoà tại Saigon, thì bị bọn lãnh tụ cao cấp của Trung Ương Đảng Việt Cộng cướp đoạt để chia nhau. Rồi lại tiếp tục tham nhũng vơ vét của công suốt mấy chục năm qua, nay đã trở thành tập đoàn Tư bản Đỏ có hàng nhiều triệu Đô La Mỹ gửi ngân hàng nước ngoài, sống phè phỡn “hủ hoá”, vợ nọ con kia đầy đàn đầy đống, trong khi quảng đại quần chúng vẫn đói nghèo cực nhục vất vả đêm ngày.
7.- Đặt cả 2 miền Nam Bắc dưới quyền cai trị độc tôn của Đảng.
Vào khoảng cuối năm 1975, Cộng sản Bắc Việt mới lộ mặt thật gian xảo, ra nghị quyết giải tán Mặt trận Giải phóng miền Nam và Chính phủ Cộng hoà Lâm thởi miền Nam (công cụ tay sai do Việt Cộng đẻ ra từ những năm cuối Thập niên 1950 sang đầu Thập niên 1960), để sát nhập cả 2 miền Nam Bắc thành một nước Cộng Hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam, dưới quyền lãnh đạo độc tôn của bọn lãnh tụ chuyên chính vô sản Việt Cộng tại Hà Nội. Giống y như hồi cuối năm 1945 sang đầu năm 1946, các đảng chính trị Quốc gia Nhân bản trong Chính phủ Liên Hiệp (Quốc, Cộng) đã bị Hồ Chí Minh phản bội tiêu diệt để Việt Cộng chiếm độc quyền cai trị đất nước vậy.
Nhờ sự kiện này, những người tập kết ra Bắc theo các điều quy định bởi Hiệp định Genève 1954, hoặc nghe lời truyên truyền xảo quyệt đi theo Việt Cộng hoạt động trong các tổ chức nói trên tại miền Nam, mới vỡ mộng biết mình đã bị lừa gạt. Người nào có đảm lược dám khẳng khái chống đối, tùy theo từng trường hợp khác nhau đều bị xa thải bằng biện pháp cho “phục viên non” (về hưu sớm hơn hạn tuổi ấn định), hoặc bị Đảng gài bẫy cho “hủ hoá”, “biến chất”… để “kỷ luật” tước đảng tịch và bắt đi tập trung cải tạo vô thời hạn như Ngụy quân Ngụy quyền và Tư sản mại bản.
Chính sách phi nhân bạc nghiã trắng trợn này của Việt Cộng, đã khiến cho nhiều Đảng viên trung kiên theo Cộng sản từ nhiều năm về trước phải sững sờ hoang mang thất vọng, nhưng đành ngậm tăm chẳng dám hé răng. Những kẻ nhát gan này, âm thầm tiêu cực “cố chịu đấm ăn xôi” tiếp tục a tòng với bọn Việt Cộng xâm lược vơ vét của cải của nhân dân tại miền Nam để làm giầu, tận hưởng cho bõ những ngày chịu đói cực trong rừng núi xa gia đình thân quyến. Hiện nay bọn này đã trở thành Tư bản Đỏ.
Nhưng, cũng có những người can đảm dám công khai phản đối bầy tỏ suy nghĩ của mình bằng nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn như, Nữ văn sĩ Dương Thu Hương gốc miền Bắc, tình nguyện vượt Trường Sơn chịu đựng gian khổ nhiều năm để giải phóng miền Nam, sau khi vào tới Saigon thấy nếp sống sung túc dư giả văn minh của quảng đại quần chúng miền Nam, mới thấy mình bị bộ máy truyên truyền của Đảng Quang Vinh lừa bịp bấy lâu nay, và đã có nhận xét đại ý rằng: “cuộc sống sung túc dư thừa của đồng bào Nam Bộ, chính là cái thiên đường mà Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân miền Bắc mơ tưởng từ mấy chục năm qua chưa đạt được…”.
Đến khoảng thời gian giữa Thập niên 1980 Nguyễn văn Linh làm Tổng Bí Thư Đảng Việt Cộng, để cứu nguy cho Đảng khỏi bị suy tàn vì các dòng thác chỉ trích khởi phát từ nội bộ đảng, đã phải vội vã học đòi quan thầy Liên Xô Nga Gorbachew, chủ trương “mở cửa”, “đổi mới”, “cởi trói văn nghệ”, cho mọi người dân được phép “nói thật nói thẳng” góp ý kiến giúp Đảng và Nhà Nước “những việc cần làm ngay” để hoàn chỉnh đường lối cai trị tốt hơn, nên Dương Thu Hương đã sốt sắng thực tình đóng góp ý kiến của mình trong Đại hội văn nghệ sĩ tại Hà Nội, và sau đó cho ra đời những cuốn tiểu thuyết vạch trần những xấu xa của chế độ, đã bị phe bảo thủ chống đối mãnh liệt đến nỗi Nguyễn văn Linh lại phải chấm dứt “chính sách cởi trói” để trói trở lại chặt chẽ hơn. Hậu quả là, Dương Thu Hương cùng nhiều người cùng chí hướng, lỡ thẳng thắn ngay tình “nói thật nói thẳng” qua những truyện ngắn hoặc kiến nghị phổ biến trên “báo, đài”, đã bị Đảng kiểm điểm “kỷ luật” bằng đọa đầy trong các trại cải tạo, hoặc bị quản chế kỳ thị đối xử cho phải “sống dở chết dở” tại nơi sinh quán cho đến chết trong đói nghèo bệnh hoạn.
8.- Thanh toán nợ vay các nước Xã hội Chủ nghiã anh em, để điều hành cuộc chiến “ý thức hệ” và “huynh đệ tương tàn” suốt 30 năm (1945-1975).
Sau 30-4-1975, không còn chiến tranh trên đất nước Việt Nam, toàn khối Cộng sản Quốc tế ngưng viện trợ cho Việt Cộng, và bắt đầu đòi nợ các khoản đã giúp Việt Cộng bằng vũ khí đạn dược quân trang dụng thực phẩm thuốc men để thúc đẩy cuộc chiến suốt mấy chục năm trời.
Không có “ngoại tệ mạnh” (ĐôLa của Mỹ, Rúp của Liên Xô, Franc của Pháp, Sterling của Anh…) để trả nợ theo yêu cầu của các nước Xã hội Chủ nghiã anh em chủ nợ, nên Việt Cộng phải xuất khẩu lao động (người) và các sản phẩm nông ngư lâm nghiệp, thủ công nghiệp, nguyên liệu khoáng chất của đất nước sang các nước chủ nợ để thế trừ dần. [Toàn Thế giới biết được việc này, nhờ các bản tin của các hãng thông tấn Tây phương loan tải vào hồi cuối năm 2001, khi Vladimir Putin Tổng thống Liên Bang Nga sang thăm Việt nam, đã tuyên bố bằng lòng xoá bỏ không đòi 8 Tỷ trong số 10 Tỷ tiền nợ do Liên Xô Viết đã cho Việt Cộng vay trong thời gian chiến tranh.]
Cũng nhờ thế, mà toàn dân tộc Việt Nam mới nhận ra được mánh lới tuyên truyền xảo trá gian manh của Hồ Chí Minh và đồng bọn Việt Cộng từ trước đến nay. Sự thật đã được phơi bầy ra ánh sáng, không phải Liên Xô Nga và Khối Cộng sản Quốc tế giúp đỡ viện trợ không bồi hoàn cho Việt Cộng duy trì cuộc chiến suốt mấy chục năm trời như Hồ Chí Minh và Việt Cộng thường rêu rao. Mà các nước Cộng sản anh em chỉ cho Việt Cộng vay để điều hành cuộc chiến đến hồi kết thúc thì phải trả nợ.
Thật là khốn khổ cho nhân dân Việt nam, sau mấy chục năm bị “Bác” và “Đảng” lừa bịp hy sinh xương máu trong cuộc chiến “huynh đệ tương tàn” không cần thiết, nay đã có hoà bình trên đất nước lại bị buộc phải tiếp tục đổ mồ hôi nước mắt ra lao động cực khổ để trả nợ thay cho “Đảng quang vinh anh hùng”, mà thật ra chỉ là bọn Mafia quân phiệt Thực dân mới tàn bạo vô nhân đạo trên đất nước Việt Nam.
Để kết luận,
Các sự kiện chứng minh còn có thể viết cả ngàn trang chưa hết. Nhưng, người viết nghĩ rằng chỉ cần trình bầy một số điều nổi bật nhất trên đây thôi, cũng đủ cho mọi người thấy rằng Việt Cộng chính là tay sai của Liên Xô Nga và Trung Cộng dùng bạo lực xâm lăng cướp đất đai, cướp của cải tư hữu, áp đặt mọi người dân miền Nam phải chịu chung số phận với người dân miền Bắc, đã bị Việt Cộng đè đầu cưỡi cổ từ sau cái gọi là “cách mạng tháng 8-1945” trở đi, chớ không phải giải phóng miền Nam thống nhất đất nước đem lại ấm no hạnh phúc cho dân chúng như Việt Cộng đã rao truyền.
Hơn ba mươi năm đã qua đi, Việt Cộng đã sửa sai đổi mới nhiều lần, nhưng vì lúc nào cũng vẫn “đại ngoan cố” giữ độc đảng cai trị, học làm kinh tế thị trường nhưng ghép cái đuôi “theo định hướng xã hội chủ nghiã” không tưởng, nên đời sống quảng đại quần chúng vẫn khốn cùng thiếu ăn thiếu mặc thiếu thuốc men… Cơ quan thống kê của Liên Hiệp Quốc đã xếp Cộng hoà Xã hội Chủ nghiã Việt Nam vào danh sách hơn một chục nước nghèo đói, chậm tiến, độc tài tham nhũng, tệ đoan xã hội xa đọa nhất Thế giới.
Thế mà, lúc nào Đảng và bạo quyền Việt Cộng cũng huyênh hoang hãnh diện là nhờ “Đảng Quang vinh, anh hùng vô địch” mà Việt Nam mới được là nước xuất khẩu gạo nhiều nhất nhì Thế giới. Nhưng, hàng năm các lãnh tụ của “Đảng Quang Vinh” vẫn phải chi phí công quỹ thay nhau ra nước ngoài, khom lưng cúi đầu gục mặt lì lợm uốn lưỡi xin viện trợ của các nước Tư bản giúp cho “xoá đói giảm nghèo”.
Ngoài ra, Đảng còn khoe khoang “là người tiên phong của giai cấp công nông” để lãnh đạo đất nước, thế mà từ năm 2006 đến nay ở trong nước đang có các cuộc đình công của công nhân các xí nghiệp Ngoại quốc và Quốc doanh, đòi tăng lương và quyền sống tối thiểu tương xứng với công sức lao động của mình. Các nông dân bị cán bộ chính quyền địa phương cưỡng bức cướp nhà đất một cách oan ức, phải giắt nhau lên Hànội khiếu kiện với Nhà Nước, nhưng không được giải quyết, còn bị Công An Nhân Dân bắt bớ giam cầm theo luật rừng, vi phạm trầm trọng Hiến Pháp do chính bạo quyền Việt Cộng đẻ ra nhưng không bao giờ tôn trọng thực thi.
Nhiều nhóm Nhân sĩ và Tu sĩ thấy sự bất công trong xã hội do sự cai trị chuyên chính độc tài của Nhà Nước ngày một quá đáng, nên đã dũng cảm bằng đường lối hoà bình bất bạo động, lên tiếng đóng góp ý kiến xin Nhà Nước cải tiến phương thức cai trị để cho quảng đại quần chúng có được các quyền căn bản của con người cần được hưởng trong một nước độc lập. Nhưng. Các đề nghị này không những không được đáp ứng, mà những người dũng cảm lên tiếng còn bị đàn áp bắt bớ giam cầm hành hạ, kết tội bằng những bản án ghép buộc vô lý như: “lợi dụng tự do dân chủ âm mưu lật đổ chính quyền, làm gián điệp, gây chia rẽ phá sự đoàn kết dân tộc…”
Các sự thật này đã phơi bầy rõ ràng mặt thật xảo quyệt của Đảng Việt Cộng là bọn phong kiến thực dân quân phiệt mới, đang cấu kết với gìới Tư bản trong nước (chính là các Đảng viên Việt Cộng các cấp và thân quyến) và Tư bản ngoài nước để bóc lột sức lao động của công nhân, chớ không phải là Đảng Cách mạng vì dân vì nước!!!
Hỡi Nhân loại yêu chuộng Tự do Dân chủ tôn trọng Nhân quyền trên toàn Thế giới!
Hơn 80 triệu công dân Việt Nam đã và đang phải sống cuộc đời nô lệ đói nghèo khổ nhục dưới ách cai trị bóc lột bạo tàn của Việt Cộng từ hơn nửa Thế kỷ nay rồi, xin Quý Vị hãy vì lòng nhân đừng tiếp tay hà hơi cho bạo quyền Việt Cộng vững bền lâu hơn nữa, hãy tạo cơ hội giúp cho Dân tộc Việt Nam có môi trường hoàn cảnh thuận lợi vùng lên lật đổ bạo quyền Việt Cộng giành lại Tự do Dân chủ Nhân quyền, để họ có được cuộc sống ấm no hạnh phúc mà “con người vốn sinh ra bình đẳng” được quyền hưởng. Như Quý vị đã từng hỗ trợ hủy diệt cái nôi Cộng sản Liên Xô và Đông Âu vào cuối Thế kỷ 20.
Mong lắm thay!
NGUYỄN-HUY HÙNG,
Cựu Đại Tá Quân lực Việt Nam Cộng hoà,
Phụ tá Tổng cục trưởng Chiến tranh chính trị, kiêm Chủ nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến trước 30-4-1975,
Cựu tù nhân chính trị, 13 năm khổ sai trong các trại tập trung cải tạo của đảng Việt Cộng và bạo quyền
Cộng hoà Xã hội chủ nghiã Việt Nam từ sau 30-4-1975.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét