Pages

Thứ Ba, 2 tháng 8, 2011

Võ Văn Trực và Cách Mạng Tháng Tám
















Chuyện làng ngày ấy là cuốn tiểu thuyết hồi ký lấy bối cảnh làng Hậu Luật ở Nghệ An, trong một thời kỳ xác định: thời kỳ đón Cách mạng tháng Tám và những gì xẩy ra sau Cách mạng tháng Tám. Khác với những cuốn tiểu thuyết viết về cải cách ruộng đất đã xuất hiện trong thời kỳ đổi mới như Những thiên đường mù của Dương Thu Hương hay Ác mộng của Ngô Ngọc Bội… đây là một cuốn tự truyện, không chỉ trình bày và tố giác hiện trạng những đấu trường, mà còn đi xa hơn: viết về nguồn cội Cách mạng tháng Tám, từ những háo hức ban đầu của cậu bé 13, hồ hỡi chào đón Cách mạng; bằng một giọng trầm tĩnh, nhạy cảm, không oán thán: giọng thành thực của chính tác giả.
Biểu hiệu của Cách mạng thường phải là Tân Trào, Ba Đình… Nhưng cậu Trực đã chuyển không gian Cách mạng vào một buổi sáng cờ bay ngợp trời ở làng Hậu Luật xứ Nghệ An, bởi Nghệ An mới chính là quê hương của Cách mạng. Và nhân vật lịch sử ở đây là bác Chắt Kế. Ngày lịch sử là ngày Bác Chắt Kế về làng. Bác Chắt Kế về làng ”hiểu thị” nhân dân.
Chương đầu, dòng đầu, bắt đầu bằng câu: Bác Chắt Kế đã về!
Bác Chắt Kế đã về!
Bác Chắt Kế đã về!
Lịch sử bắt đầu bằng lịch sử Bác Chắt Kế.
Và lịch sử Bắc Chát Kế có nhiều nét hao hao giống lịch sử của một người Nghệ An khác: ”Năm 1927, bác đứng ra thành lập chi bộ Thanh niên cách mạng đồng chí hội của làng tôi. Bác đi khắp bốn phương trời, vào Tây Cống, sang Xiêm La, tới Hương Cảng, sang Luăng-Prabăng, đến Nông-Pênh… Rồi bác bị đi đầy ở Lao Bảo, Ban Mê Thuột…
Lao Bảo là nơi đâu? Ban Mê Thuột là nơi đâu? Nghe nói đó là những chốn ma thiêng nước độc, chứa đầy những quỷ sứ có sừng, rắn đỏ mào, rết mắt xanh. Bác Chắt Kế bị ném vào ngục ấy và chịu đựng muôn nghìn cực hình. Bác bị xẻo thịt, bị dẫm chân lên lưỡi cầy nướng đỏ, bị tuốt cật nứa, bị ném vào ổ rắn độc… Bác vẫn không chết bởi vì bác có phép thiêng của Thần ban cho” (Trích Chuyện làng ngày ấy, Nhà xuất bản Lao Động, 2005, trang 8-9). Và cụ thân sinh ra Bác Chắt Kế, cũng có một “lịch sử” tương tự như lịch sử của một ông cụ thân sinh khác: ”Cố Kế là cụ thân sinh ra bác Chắt Kế, một lần đi vận động phong trào Văn Thân từ Yên Thành về, qua giếng thần, Thần hiện lên và trao cho thanh gươm, đêm ấy bà thân sinh có mang rồi đẻ ra bác Chắt Kế là người của thần linh sai phái xuống để cứu nhân độ thế. Từ mười lăm mười sáu tuổi, bác đã tham gia các hoạt động của “hội kín”. (sđd, trang 8).
Tất cả những chữ: ”hiểu dụ, giếng thần, thanh gươm thần”, ngẫu hợp với chuyện Cố bà sanh quý tử… được dùng để mào đầu cho một cuộc cách mạng vô thần. Có cái gì mâu thuẫn, gần như ngang trái, oan trái, như định mệnh, như số kiếp, như ân oán, như nghiệp chướng, đến với dân làng và dân tộc này: Bởi niềm tin có truyền thống lâu đời nhất vào thần linh, thần quyền của họ, đã bị lợi dụng để thiết lập một thứ thần linh khác, cái thần mới này thay thế thần thánh cũ, áp dụng một thứ thần quyền khác, với đầy phép lạ, hứa hẹn một thực tại bánh vẽ, trong những điều kiện tối tăm và bí mật hơn cả các thần linh muôn đời chập lại. Sự khác biệt sâu xa nhất giữa thánh mới và thần cũ là thần thánh (cổ truyền) không hứa hẹn gì, họ không dám nói dối, còn thánh mới cả gan hứa hẹn chắc nịch những điều mà dân làng chỉ thấy trong mơ.
Thánh mới hiển nhiên là Bác Chắt Kế: ”Bác Chắt Kế là cách mạng, Bác Chắt Kế về là cách mạng về, là ăn no mặc ấm, là được đến trường học hành…” (trang 12). Bác Chắt Kế trở thành thần bằng xương bằng thịt. Khung cảnh bác “hiểu dụ” quần chúng như thế này: ”Bác Chắt Kế đứng chính giữa, mặc bộ đồ xoóc vải nâu mới nguyên. Bác nói những gì dài dài lắm. Nào là Đồng minh thắng rồi, trục phát xít bại trận rồi. Nào là nước Nga Xô viết vạn tuế. Nào là chủ nghiã Mã Khắc Tư vô địch… Hai tay bác giơ lên rồi hạ xuống, trông rất oai vệ. Tôi như bị thôi miên theo từng cử chỉ của bác” (trang 13).
Dân chúng trong làng chưa bao giờ được nghe những lời lạ tai, được thấy những cử chỉ khác thường như vậy. Điều lạ nữa là họ được học vỗ tay: ”Lạ nhất là chốc chốc người ta lại vỗ tay. Từ trước đến nay, giữa hội hè đình đám người ta có vỗ tay đâu, mà chỉ reo lên. Có một người vỗ tay trước, rồi mọi người vỗ theo. Tôi ngơ ngác, không hiểu mình có được vỗ tay hay không? Tôi liếc nhìn sang thằng Bá xem hắn thế nào? Hắn ngập ngừng giơ hai bàn tay rồi vỗ. Tôi cũng làm theo hắn. Lúc nào tôi chậm chạp, hắn hích tay tôi một cái, ý bảo “hãy vỗ tay thật to”. Bao giờ hắn cũng tỏ ra hiểu biết hơn tôi” (trang 14). Đoạn văn ngắn này mở màn cho bi kịch của dân làng và bi kịch của dân tộc: người trong làng chưa từng nghe thấy những chữ lạ như đồng minh, phát xít, Nga Xô viết, chủ nghiã Mã Khắc Tưbao giờ, họ cũng chưa từng biết vỗ tay tập thể như thế. Bác Chắt Kế về, mang theo những chữ mới, những dáng điệu mới, đặc biệt nhất là một hình thức rập khuôn mới: sự ”hoan hô nhất trí”. Dân làng, trước đó trong hội hè đình đám chỉ biệt reo lên. Reo, hò, là hình thức cá nhân biểu hiện sự vui mừng: nhiều cá nhân cùng vui mừng môt lúc. Reo, hò cũng là niềm vui xuất phát tự đáy lòng, anh có vui, có thích thật thì anh mới reo, hò. Không ai có thể bắt anh reo lên đưọc, nếu anh không vui trong bụng. Ngược lại vỗ tay là một cử chỉ bề ngoài, người ta có thể bắt buộc anh vỗ tay, nhiều khi anh không thích anh cũng vẫn phải vỗ tay, hệt như Trực, nhìn thấy thằng Bá vỗ tay, Trực cũng phải vỗ, cho giống nó, cho giống mọi người.
Sự vỗ tay tập thể đồng nghiã với sự hoan hô tập thể và đi đôi với danh từ nhất trí, (nhập của Tàu, không có trong tiếng Việt trước); bởi lẽ hiên nhiên là mỗi người có một trí óc, một ý kiến; chúng ta chỉ có thể đồng ý với nhau ở điểm này, không đồng ý với nhau ở điểm kia, nhưng con người không bao giờ có sự nhất trí, vì trí óc mỗi người là một, độc nhất, không ai giống ai. Việc học vỗ tay tập thể dẫn đến tình trạng “nhất trí”. Một xã hội “nhất trí” dùng chữ nhất trí, tức là con người trong xã hội đó đã mất hẳn trí óc cá nhân, chấp nhận sự hoan hô vô điều kiện trước bất cứ vấn đề gì do vị thánh mới đặt ra. Và đó là điều kinh hoàng nhất mà Bác Chắt Kế đem về cho dân tộc.
Bác Chắt Kế – với dáng điệu lạ lùng, chân tay dơ lên rồi hạ xuống, và cái vỗ tay mới lạ, đối với cậu bé 13 tuổi là Trực, cũng như đối với dân làng – biểu hiệu sự đổi đời. Chưa hết, Trực kể tiếp: ”Tôi ngước nhìn lên núi Hai Vai. Kià đỉnh núi cũng tung bay cờ đỏ. Cách mạng tài thật! Ai đã trèo lên tận chót vót núi để cắm cờ? Ôi, ngọn núi ông Đùng, ngọn núi thần thoại, ngọn núi mang đầy khát vọng tuổi thơ, đã rực hồng cánh đại bàng, chở tâm hồn tôi bay lên thiên đường của thế giới đại đồng” (trang 15). Như thế, Cách mạng đến với cậu bé và dân làng bằng những dấu hiệu thần tiên, bí mật, nửa người, nửa thánh. Đã có sự thánh hoá và nhất trí hoá ngay từ buổi đầu: nhân dân được giáo huấn vỗ tay, chấp nhận những điều chưa biết, chưa hiểu, mà không cần tìm hiểu, bởi tất cả những gì thuộc về Cách mạng đều bí mật, đều thuộc thế giới đại đồng của thần linh.
Tất cả xuất phát từ dấu hiệu vỗ tay ban đầu: chúng ta không biết vỗ tay, không biết hoan hô, người ta dậy vỗ tay tập thể, hoan hô tập thể. Chúng ta không biết Nga Xô viết, chủ nghiã Mã Khắc Tư là gì, người ta bảo cứ học thuộc lòng cho quen mặt chữ, và đó là bi kịch của lịch sử dân tộc. Tất cả những diễn biến xẩy ra sau đó chỉ là một trình tự, một quy luật tự nhiên của sự chấp thuận không suy nghĩ, của sự nhắm mắt đưa chân, của sự cả tin kéo dài trong đời người, của sự loại bỏ trí óc cá nhân ra ngoài, chỉ còn lại một người, một đảng, một kẻ, là trí óc cho tất cả: hệ quả của sự nhất trí.
Võ Văn Trực viết về bi kịch ấy như một thứ ký ức, không oán hận, không tố cáo. Nhà văn lần mở lại những trang tuổi trẻ của cậu bé 13 trải qua cái Tết Độc Lập đầu tiên, ngày 2/9/46, bằng một giọng ngậm ngùi, : ”Thêm được ngày hội Tết độc lập, nhiều ngày hội cổ truyền khác bị phế bỏ: rằm tháng giêng, thanh minh, tết Đoan ngọ, rằm tháng bẩy…Người ta cho đó là cổ hủ, là mê tín dị đoan (….) Thế là cả làng làm cách mạng triệt để, thay cũ đổi mới hoàn toàn. Gặp nhau ngoài đường, giơ nắm tay phải lên ngang tai “chào đồng chí”. Nhất là trong các cuộc hội nghị, mẹ gọi con bằng “đồng chí”, con gọi bố bằng “đồng chí”, anh gọi em bằng “đồng chí… (trang 28)
“Sau tết Độc lập đầu tiên, đến tết Nguyên Đán, không thấy ông tôi cuộn hương trầm công phu như trước, chỉ mua hương ở chợ. Chiều 29 tết, ông mở hòm gỗ trắc, lau bụi đôi hạc đồng, xếp lại câu đối, rồi khoá hòm. Tôi ngỡ ngàng hỏi: “Sao ông không đem ra cúng tết?”. Ông trả lời giọng ngậm ngùi: “Bây giờ là cách mạng, khác rồi cháu ạ…”. Vĩnh viễn các đồ tế khí linh thiêng ấy nằm trong hòm khoá kín như tấm lòng ông tôi khoá lại niềm tôn kính thờ phụng tiền nhân” (trang 33). Chính cái ngậm ngùi thầm lặng ấy đã tạo nên giá trị nội tại của tác phẩm.
Lần từng trang từng trang, diễn biến cứ tuần tự tiếp nối, con người đã bị gột mất trí óc trở thành đàn cừu ngoan ngoãn thực hiện những gì Bác bảo, không kháng cự, không đòi hỏi, không chống lại, không tự vấn mình: Tết nguyên đán và nhiều thứ khác dần dần đi ra nghiã địa. Từ ngày có tết Độc lập, các loại bánh cổ truyền vắng bóng dần chỉ còn lại bánh tét và bánh chưng. Bác hướng dẫn dân làng làm bánh Độc lập bằng khoai lang. Vì mọi người kiêng không ăn thịt chó ngày Tết, muốn bài trừ mê tín dị đoan Bác Chắt Kế làm thịt chó ăn Tết để làm gương. Rồi Bác phế bỏ tuồng. Vắng tiếng trống tuồng, thôn xã buồn hiu. Bác gợi ý thầy đồ viết tuồng “núi Lam Sơn” ca tụng các chiến sĩ Cách mạng đánh Tây, nhưng chỉ diễn vài đêm là người xem chán. Từ đó “hội tuồng hoàn toàn tan rã”. Rồi đám cưới “đời sống mới”: o Thèo nêu gương sáng không thách lễ cưới linh đình mà đòi nhà trai hai quả lựu đạn. Bác từ tỉnh về mang theo bản đồ xây dựng lại làng theo cuộc sống tập trung. Nhà chung, cơm chung, ngủ chung. Ở đâu cũng được, ăn đâu cũng được. Vĩnh biệt những cây cổ thụ, chúng biểu hiệu lòng mê tín dị đoan và địch có thể lợi dụng làm pháo đài: phải phá tất, phải chặt tất! Cây muỗm đền Bạch y thần. Cây đa Cồn Rộng nổi tiếng linh thiêng. Cây đa Đập Trùn toả bóng mát những trưa hè cho đám thợ gặt. Cây đa xóm Bấc còn gọi là cây đa phù Lê, trên năm trăm tuổi. Cây đa xóm Trung gắn liền với câu ca dao: ”Xóm Trung mà đổ cây đa / Cả làng Hậu Luật đàn bà chửa hoang”.
Đào tận gốc, trốc tận rễ xong các cây cổ thụ, làng tập trung tổ tiên. Trực kể: ”Riêng nhà tôi, cha đã sửa soạn bàn thờ từ chiều hôm trước. Để bà con láng giềng không biết, mãi đến tối mịt cha mới đem trưng tất cả các đồ tế khí khi mà trước đây chỉ ngày tết mới trưng ra: đũa sơn, bát trái hồng, đĩa cây trúc, đĩa con phượng, đôi hạc đồng ngậm hoa sen, mâm đồng… Tôi xúng xắng bên cạnh cha, cũng soạn cái này sửa cái kia để làm vừa lòng cha. Tẩn mẩn tôi hỏi: “Đến mai là tết à, cha?”. Cha lặng lẽ trả lời: “Ông bà tổ tiên chỉ được hưởng những thứ này lần cuối cùng thôi con ạ. Sớm mai ông bà đi tập trung rồi, có về nhà mình nữa đâu” (trang 79).
“Sau cuộc rước tổ tiên tập trung về một nơi, tất cả các nhà thờ họ trong làng đều bị phá. Có nhà thờ biến thành địa điểm hội họp. Có nhà thờ biến thành kho phân.”(trang 81) ”Tất cả thánh, thần, phật ở rải rác cá thể trong thôn xã đều phải về tập trung tại đền Hàng Khoán, dưới chân núi Hai Vai.” (trang 87) ”
Thần đã đi rồi. Thánh đã đi rồi. Phật đã đi rồi. Những ngôi đền, ngôi chùa, ngôi miếu như cái xác không hồn. Dân tứ chiếng tranh nhau cướp giật mang đi: người được hòn đá tảng, người được cái cửa vọng, người được viên ngói viên gạch, người được cái cột gỗ…
Ôi tan hoang đến tột cùng tan hoang sau cuộc rước các thần các thánh về thế giới đại đồng. Tại nhà thờ thánh, tượng Khổng Tử lăn long lóc như người ăn mày tha hương chết đường chết chợ, bị trẻ con ném cứt vào mặt (…)
Còn đến thờ Bạch Y thần thì sao? (…) Cây muỗm mấy trăm năm đã bị đào tận gốc trốc tận rễ. Mùi phân bắc, phân lợn, phân trâu bò xông lên hôi hám khắp cả khu đền cũ. Thượng điện biến thành kho phân. Hạ điện biến thành nơi hội họp. Cửa tam quan bị san bằng hoàn toàn, không còn lại chút dấu vết oanh liệt xa xưa. Nhà tả mạc, hữu mạc bị phá trụi và được dựng lên đó những túp nhà gianh của các gia đình nghèo khổ. (…) Chúng tôi vô tâm vô tư xông vào hậu cung bẻ gẫy đầu rồng của Ngai thờ, nghịch ngợm chặt đôi chặt ba con rùa đội hạc, hung ác cầm gươm thần đánh nhau trong những cuộc tập trận giả, tàn ác đập vỡ hòn sơn giả có gốc si bủa rễ bao bọc hàng trăm năm” (trang 94- 96)
Tập trung xong thần thánh, làng tập trung mồ mả. ”… người ta lại đùng đùng phát động thanh niên mở chiến dịch đào mồ đào mả” . “Đủ mọi dạng mọi kiểu đất táng: tiểu sành, tiểu gỗ, nồi đất, chiếu… Mỗi nắm xương khô là một cuộc đời riêng, một thế giới riêng được giấu kín trong lòng đất, phức tạp và huyền bí (…) Những cuộc đời riêng là vậy, những nỗi niềm riêng là vậy! Thế mà đến sáng mai này tất cả mọi bộ hài cốt được trộn vào trong một khối cộng đồng bao bọc bởi tấm ni lông! (…) hàng chục cái sọ dừa, hàng chục cái xương tay xương chân, hàng chục bộ răng đổ ào vào một đống”. (trang 99- 100).
Nhẹ như tiếng thở dài, Võ Văn Trực đưa ta vào cõi ấy, cõi mộng du hoang tàn tiền sử: Sau khi tập trung tất cả những gì thuộc địa hạt thần linh, đến tập trung con người. Tập trung con người bằng hội họp, suốt ngày hội họp bỏ bê đồng áng, hệ quả tất yếu là không có lúa gạo, là đói khát, là thuế khả năng: vét nhẵn, sạch trơn không còn một hạt thóc. Không còn gì để đóng thuế, là phản động. Là tố cáo lẫn nhau. Là đấu tranh chính trị. Là tố khổ…
Nguyên tắc “nhất trí” khiến người dân chấp nhận một cái đảng duy nhất nghĩ hộ.
Nguyên tắc tập trung đã khiến con người trở thành vô trách nhiệm, về hùa ăn theo, gạt bỏ lương tri cá nhân để về hùa đánh tập thể trong mọi đấu trường.
Chính sự ngây thơ của người dân, cả tin vào thần linh mới đã tiêu diệt làng xóm của họ.
Đến đây, ta đã thấy rõ tính chất của cuộc Cách mạng tháng Tám khác hẳn những cuộc cách mạng khác: Cách mạng 1789 của Pháp có mục đích lật đổ đế chế độ quân chủ chuyên chế. Cách mạng Tháng mười của Nga lật đổ chế độ Sa Hoàng. Cách mạng tháng Tám không lật đổ chính quyền Bảo Đại vì nhà vua đã thoái vị. Cách mạng tháng Tám cũng không chống Nhật, vì Nhật đã đầu hàng. Mục đích chống Pháp là mục đích chung của toàn dân trong đó có những thành phần hoàn toàn đối lập với cách mạng.
Võ Văn Trực phản ảnh tình trạng Cách mạng dỏm ấy một cách châm biếm nhẹ nhàng, nhưng đầy ý nghiã: ”Bác chát Kế dẫn một đoàn thanh niên lực lưỡng cầm cờ cầm mác đi giành chính quyền ở các làng khác trong huyện Diễn Châu. Từ nhà thờ Đại Tôn, đoàn người đi rất uy nghi, chân bước dài, miệng đếm “ắc đê..ắc đê…” (trang 15). Trước đây, Phan Khôi là người duy nhất dám nói lên thực trạng dỏm đó, điều này đã được Nguyễn Công Hoan nhắc lại trong bài buộc tội Phan Khôi:” Cho đến năm hoà bình, 1954, chưa bao giờ hắn (tức là Phan Khôi) viết hoặc nói, mà dùng danh từ “Cách mạng tháng Tám”. (…). Hắn nói rằng trước kia hắn dùng ba tiếng “cướp chính quyền” mà cũng ngượng mồm. Hắn nói rằng lúc đó, Pháp đổ rồi, Nhật hàng rồi, chính phủ Trần Trọng Kim tê liệt rồi, chính quyền bỏ rơi, thì ta “lượm” được, chứ “cướp” ở tay ai? (Trích bài Hành động và tư tưỏng phản động của Phan Khôi cho đến thời kỳ toàn quốc kháng chiến” của Nguyễn Công Hoan, báo Văn Nghệ số 12, tháng 5, năm 1958).
Cách mạng tháng Tám xẩy ra khốc liệt nhất là ở Nghệ An. Võ Văn Trực, người Nghệ An chính gốc, qua lối viết châm biếm thầm lặng, đã mô tả được mặt trái của Cách mạng: đó là một cuộc Cách mạng dỏm, lai căng, vừa Tây ắc-đê, vừa lai Xô Viết, không có mục đích rõ ràng, bị cuốn theo những điều học lỏm của người khác, dẫn đến sự tàn phá văn hoá và triệt hạ con người, mà tất thảy đều vô can, như chuyện trong làng, chuyện làng. Không ai trách nhiệm.

Thụy Khuê
Nguồn: RFI

Không có nhận xét nào: