Pages

Thứ Hai, 4 tháng 6, 2012

3 bước hiểm Trung Quốc chia cắt đoàn kết nội khối ASEAN


(Phunutoday)- “Đánh” và “đàm” là sách lược Trung Quốc đang áp dụng trong việc giải quyết tranh chấp trên biển Đông. Sau những lời thách thức dư luận, giờ đây Trung Quốc đang dùng 3 bước đi quan trọng đầu tiên đầy ý đồ để xoa dịu Asean.
Trung Quốc và Thái Lan cùng tập trận chung. Vừa qua từ ngày 9 đến 29/5/2012, hải quân 2 nước Trung Quốc và Thái Lan đã tiến hành tập trận chung tại hai thành phố Trạm Giang và Sơn Vĩ, tỉnh Quảng Đông.

Theo Tân Hoa xã, cuộc tập trận mang tên Biệt kích xanh 2012 được tiến hành dựa theo một thỏa thuận được ký kết trước đó giữa hai nước. Thông qua cuộc tập trận này, lực lượng hải quân hai nước sẽ có cơ hội thực hành các kỹ năng chống khủng bố và tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau.
Động thái này của Trung Quốc diễn ra trong khi căng thẳng giữa Trung Quốc và những quốc gia trong khu vực Đông Nam Á đang dâng cao, khiến nhiều người nghĩ tới việc phải chăng Trung Quốc đang “lợi dụng” Thái Lan để làm giảm sự đoàn kết trong nội khối Asean.


Thực ra điều này lại chứng tỏ một điều hoàn toàn ngược lại, theo nhận định của chuyên gia quân sự Indonesia thì việc làm trên của Trung Quốc có thể xem là hành động xuống thang của nước này trước tình hình căng thẳng trên biển Đông.
Bởi suy cho cùng nếu tình hình vẫn tiếp tục căng thẳng như hiện nay thì rõ ràng điều bất lợi sẽ thuộc về Trung Quốc, một khi các quốc gia Asean cùng chung một chiến hào thì chưa cần tới sự giúp đỡ từ bên ngoài Bắc Kinh cũng đã phải đau đầu tìm phương kế ứng phó.
-Lôi kéo và lợi dụng chính là điều Bắc Kinh cần và cũng rất muốn triển khai vào lúc này. Một khi đã lôi kéo và bắt tay hợp tác với một vài quốc gia có tiếng nói trong khu vực Đông Nam Á thì Trung Quốc sẽ phần nào yên tâm hơn.
Bước đi thứ 2 của Trung Quốc chính là viện trợ 19 triệu USD cho Campuchia để… giảm căng thẳng biển Đông
Có lẽ Trung Quốc sẽ không bao giờ hào phóng đến mức tự nhiên cho không Campuchia 19 triệu USD, lại còn đưa học viên sĩ quan nước này qua Trung Quốc đào tạo giúp, vậy đổi lại Bắc Kinh sẽ được cái gì đằng sau khoản viện trợ khá lớn này?
Động thái cuối cùng của Bắc Kinh nhằm chia rẽ Asean là khuyến khích Pakistan bán máy bay “Thần Sấm” FC1 cho Indonesia.
Thực ra loại tiêm kích này do chính Trung Quốc và Pakistan hợp tác phát triển.
Nắm bắt được thông tin này, ngay lập tức Trung Quốc đã bắn tín hiệu sang cho Pakistan đề nghị cung cấp loại máy bay tiêm kích này. Nếu ký được hợp đồng mua bán FC1, hợp đồng sẽ bao gồm việc chuyển giao công nghệ và tổ chức sản xuất máy bay theo giấy phép tại Indonesia trên cơ sở hiệp định hợp tác song phương trong lĩnh vực quốc phòng ký năm 2010.
Hơn bao giờ hết, trong lúc này Trung Quốc rất mong muốn cung cấp máy bay của mình sản xuất cho Indonesia thông qua Pakistan vì 2 cái lợi. Thứ nhất Bắc Kinh có thể nắm vững thông tin về những loại vũ khí hàng đầu của quốc gia vạn đảo này. Điều thứ 2 là thông qua hợp đồng trao đổi vũ khí Trung Quốc sẽ khiến Indonesia phải lệ thuộc vào mình nhiều hơn, qua đó dễ dàng điều phối lập trường của Jakarta trong vấn đề biển Đông.
-Dường như đã nhìn rất rõ ý đồ của Trung Quốc khống chế Asean về vấn đề biển Đông thông qua các nước không có tranh chấp trực tiếp như Campuchia, Thái Lan, Indonesia. Thủ tướng Malaysia Najib Razak và Phó Tổng thống Philippines, Jejomar Binay thống nhất kêu gọi 4 quốc gia thành viên Asean có tranh chấp chủ quyền trên biển Đông là Philippines, Malaysia, Việt Nam và Brunei nên nhóm họp riêng với nhau để bàn bạc làm thế nào giải quyết bế tắc sau sự kiện căng thẳng trên bãi Scarborough.
(GDVN) – Để giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền biển Đông, giới “học giả, quân sư” Trung Quốc đưa ra hai kịch bản: Đánh và đàm, nhiều khả năng Bắc Kinh sẽ kết hợp và phát huy tối đa 2 kịch bản này, như 2 gọng kìm nhằm kẹp chặt biển Đông.
Một số tướng lĩnh của Trung Quốc có các bài viết, tuyên bố về tình hình Biển Đông và cách đối phó của quân đội Trung Quốc (minh hoạ)
Trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng tỏ ra cứng rắn trên biển Đông, làm thế nào để ngăn chặn hiệu quả âm mưu độc chiếm biển Đông của Bắc Kinh là một bài toán đau đầu đặt ra cho các bên liên quan có tuyên bố chủ quyền đối với vùng biển này.
Điều mà Trung Quốc sợ nhất, ngán nhất trong tiến trình hiện thực hóa âm mưu ấy đôi khi chính là chìa khóa tháo gỡ thế bí cho các bên tranh chấp, đó là đưa vấn đề biển Đông ra công luận, trọng tài quốc tế.
Mỹ quay trở lại biển Đông
Theo Ngoại trưởng Hillary Clinton, tham gia Công ước biển Liên Hợp Quốc sẽ đảm bảo tốt hơn quyền lợi hàng hải của 1 quốc gia hàng đầu về biển như Mỹ nhằm “đối phó với những thách thức của các nước khác trên cơ sở pháp lý và mang tính thuyết phục nhất, trong đó bao gồm cả các khu vực quan trọng như biển Đông”, tờ Manila Bulletin trích dẫn.
Ngoại trưởng Hillary Clinton, Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta (bên phải), Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Martin Dempsey đồng thanh lên tiếng hối thúc các nhà lập pháp Mỹ sớm thông qua Công ước biển Liên Hợp Quốc
“Chỉ khi nào với vai trò là một thành viên phê chuẩn Công ước biển Liên Hợp Quốc, Mỹ mới có thể bảo vệ tốt nhất quyền tự do điều hướng được ghi nhận trong Công ước và phát huy tối đa mức độ ảnh hưởng, cũng như phản ánh rõ một điều rằng Mỹ giữ vai trò ảnh hưởng số 1 trên thế giới về hàng hải”, bà Clinton nhấn mạnh.
Ngoại trưởng Mỹ cũng nói rằng Hoa Kỳ hỗ trợ các quốc gia “bị đe dọa” bởi các tuyên bố của Trung Quốc. Khi chưa tham gia phê chuẩn Công ước biển Liên Hợp Quốc, Mỹ đã để vị thế cao hơn về cơ sở pháp lý thuộc về Trung Quốc và tự đặt mình vào thế phòng thủ, đúng như một bài xã luận gần đây của Tân Hoa Xã cao giọng nhắc Washington: Mỹ có phải nước phê chuẩn Công ước biển Liên Hợp Quốc đâu mà có quyền đòi nước khác (Trung Quốc) phải tuân thủ nó như thế này hay như thế nọ!
Tàu sân bay USS George Washington thuộc hạm đội 7 Thái Bình Dương, biểu tượng sức mạnh Hải quân Mỹ
Bà Clinton cũng thừa nhận một thực trạng, chính rào cản pháp lý (việc Mỹ chưa phê chuẩn Công ước biển Liên Hợp Quốc – PV) khiến cho Washington không thể ủng hộ mạnh mẽ hơn cho các đồng minh, đối tác của Mỹ ở khu vực biển Đông như Mỹ mong muốn.
Chưa bao giờ giới chức cấp cao Nhà Trắng lại tỏ ra sốt sắng và đồng thuận cao độ về việc phê chuẩn Công ước biển Liên Hợp Quốc như lần này. Buổi điều trần có sự hiện diện của Ngoại trưởng Hillary Clinton, Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta và Chủ tich Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ Martin Dempsey, những nhân vật cao cấp nhất về ngoại giao và quân sự Hoa Kỳ đều cùng chung quan điểm.
Động thái này dường như là dấu hiệu chấm dứt cho thời kỳ “nghe ngóng” của Mỹ về biển Đông, đã đến lúc Washington cần có hành động cụ thể. Lần đầu tiên Mỹ lên tiếng khẳng định Washington có “lợi ích cốt lõi” ở biển Đông được chính Ngoại trưởng Hillary Clinton phát biểu tại Hà Nội ngày 23/7/2010, tuy nhiên từ đó đến nay công luận chưa ghi nhận hành động cụ thể nào của Mỹ khẳng định vai trò, vị thế của mình trên biển Đông.
Hải quân Trung Quốc ngày càng gia tăng hoạt động trên biển Đông, đặc biệt là những hành động leo thang, lấn lướt tại các vùng biển tranh chấp không chỉ đe dọa an ninh các nước khác mà còn uy hiếp đến hoạt động tự do hàng hải trên tuyến giao thông đặc biệt quan trọng này (hình ảnh hạm đội Nam Hải tập trận đối kháng trên biển Đông)
Nhưng những nước cờ lấn lướt, leo thang, bất chấp công luận và pháp lý quốc tế của Trung Quốc trong thời gian vừa qua trên biển Đông đã khiến Mỹ không thể làm ngơ.
Việc tàu ngầm tấn công USS North Carolina bất ngờ xuất hiện trên cảng Subic gần bãi cạn Scarborough đúng lúc căng thẳng Trung Quốc – Philippines gia tăng và hạm đội Nam Hải, Trung Quốc đưa 5 chiến hạm kéo theo 48 quả tên lửa diễn tập sát vùng biển Philippines không phải một sự ngẫu nhiên, Bắc Kinh hiểu điều đó.
Điều gì đến rồi cũng sẽ đến, cái Trung Quốc sợ nhất là Mỹ can thiệp vào việc giải quyết tranh chấp chủ quyền trên biển Đông và đưa vấn đề này ra trọng tài quốc tế phân xử dường như đang ngày càng hiện hữu. Phiên điều trần ngày 23/5 của Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ chính là phát pháo khởi đầu cho chiến dịch quay trở lại biển Đông, có thể thấy người Mỹ không nói chơi.
Trung Quốc đang lo lắng thực sự khi Mỹ quay trở lại?
Động thái này thể hiện rất rõ trong những phản ứng của bộ Ngoại giao Trung Quốc đối với động thái Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton trong buổi điều trần hôm 23/5 vừa qua trước Ủy ban đối ngoại Thượng viện Mỹ đã thúc giục các nhà lập pháp Mỹ tham gia phê chuẩn Công ước biển Liên Hợp Quốc trước cuối năm nay.
Trung Quốc bất ngờ, lo ngại trước động thái chủ động hối thúc Quốc hội Mỹ thông qua việc phê chuẩn Công ước biển Liên Hợp Quốc của Nhà Trắng (hình ảnh: Hồng Lỗi – người phát ngôn bộ Ngoại giao Trung Quốc)
Bắc Kinh tỏ ra khá bối rối và đã lên tiếng bày tỏ sự quan ngại sâu sắc đối với thay đổi này từ phía Washington. Trong e-mail của Đại sứ quán Trung Quốc tại Philippines gửi phóng viên báo chí nhắc đến phát biểu của Hồng Lỗi, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc.
“Chúng tôi đã nhận được các báo cáo liên quan và chúng tôi bày tỏ sự lo ngại về điều này”, Hồng Lỗi cho biết, “Theo hiểu biết của chúng tôi, vấn đề biển Nam Trung Hoa (biển Đông), (Trung Quốc) không chấp nhận sự tham gia của ASEAN cũng như các nước không có tranh chấp trên vùng biển này”.
“Trên nền tảng và điều kiện quan trọng tiên quyết đó, phía Trung Quốc đã liên tục cam kết bảo vệ hòa bình và ổn định trong khu vực biển Nam Trung Hoa (biển Đông) bằng các phương tiện như đàm phán và ký kết Tuyên bố chung về ứng xử của các bên trên biển Đông (DOC) song song với những nỗ lực của chúng tôi theo đuổi giải quyết tranh chấp thông qua đàm phán trực tiếp (tay đôi) giữa Trung Quốc với các nước liên quan”.
“Đường 9 đoạn” hay còn gọi là “đường lưỡi bò” do Trung Quốc tự vẽ ra để đòi hỏi cái gọi là chủ quyền gần như toàn bộ biển Đông, một đòi hỏi phi pháp, vô giá trị
Từ những động thái trên có thể nhìn thấy rất rõ khía cạnh của một vấn đề. Thứ nhất, Trung Quốc không từ bỏ tham vọng độc chiếm biển Đông và sống chết theo đuổi chiến lược “bẻ từng chiếc đũa”, tìm mọi cách ngăn cản việc đưa tranh chấp ra trọng tài quốc tế.
Thứ 2, Mỹ đang xúc tiến các thủ tục pháp lý (phê chuẩn Công ước biển Liên Hợp Quốc – PV) để đủ cơ sở can thiệp sâu hơn, đủ lý lẽ “nói chuyện phải quấy” với Trung Quốc về biển Đông. Ngoại trưởng Hillary Clinton không phải người thích đùa khi đưa chuyện này ra Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ.
Khía cạnh thứ nhất đã được thể hiện rất rõ trong tất cả các phát ngôn, tuyên bố từ giới quan chức ngoại giao và quốc phòng Trung Quốc, đặc biệt là phát biểu của 2 tướng lĩnh nước này, ông Lương Quang Liệt và ông Mã Hiểu Thiên hôm 28/5 vừa qua.
Trong khi Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc tỏ ra cứng rắn và là người đầu tiên đưa ra một thông tin ỡm ờ về “khả năng sử dụng vũ lực trên biển Đông” thì Phó tổng tham mưu trưởng Mã Hiểu Thiên lại khẳng định giờ chưa phải lúc dùng vũ lực.
Ông Lương Quang Liệt lần đầu tiên lên tiếng “ỡm ờ” về khả năng Trung Quốc dùng vũ lực trên biển Đông, bật đèn xanh cho một loạt các viên tướng dưới quyền ông đánh tiếng về giải pháp quân sự đối với các bên tranh chấp
Tuy nhiên cả hai quan chức này đều khăng khăng khẳng định chủ trương giải quyết tranh chấp biển Đông thông qua đàm phán tay đôi và phản đối bất cứ sự can thiệp nào của bên thứ 3, kể cả trọng tài quốc tế.
Cộng với những phát ngôn của bộ Ngoại giao Trung Quốc cho thấy, Bắc Kinh thực sự sợ vấn đề biển Đông bị đưa ra công luận và trọng tài quốc tế, Trung Quốc rất sợ sự can thiệp của Mỹ mà chưa có cách nào đối phó ngoài những phát ngôn phản ứng ngoại giao và mặt trận truyền thông cứ “tua đi tua lại” tuồng cũ.
Khía cạnh thứ 2, sự can thiệp của Mỹ đối với vấn đề biển Đông sẽ không chỉ dừng lại ở quan sát và phát đi những thông điệp mang tính cảnh báo đối với Bắc Kinh như những gì đã và đang diễn ra trong thời gian qua.
Thông điệp trong phát biểu của Ngoại trưởng Hillary Clinton đã khá rõ, điều này như được khẳng định thêm khi liên hệ với với quan điểm “không để Trung Quốc thích làm gì thì làm trên biển Đông” của Thượng nghị sĩ John McCain phát biểu gần đây.
Tàu ngầm tấn công USS North Carolina của Mỹ bất thình lình nổi lên mặt nước cảng Subic gần Scarborough trong những ngày căng thẳng khiến Bắc Kinh nhấp nhổm không yên khi thấy rằng người Mỹ không nói chơi
Thậm chí ngay cả Thượng nghị sĩ John Kerry, Chủ tịch Ủy ban đối ngoại Thượng viện Mỹ trong cùng một buổi điều trần đã nói thẳng, Trung Quốc và các nước khác đang nỗ lực khoanh vùng những vùng biển tuyên bố chủ quyền bất hợp pháp bao gồm biển Đông và các khu vực khác. Như vậy, có thể thấy rằng việc Mỹ quay trở lại biển Đông không phải chuyện “nói cho vui”.
Kịch bản “đánh” và “đàm” của Trung Quốc trên biển Đông, Shangri-la chìa khóa giải nan đề 
Để giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền biển Đông, giới “học giả, quân sư” Trung Quốc đưa ra hai kịch bản: Đánh và đàm, nhiều khả năng Bắc Kinh sẽ kết hợp và phát huy tối đa 2 kịch bản này, như 2 gọng kìm nhằm kẹp chặt biển Đông.
Những “học giả” Trung Quốc đeo hàm thiếu tướng liên tục viết bài tuyên truyền về biển Đông theo quan điểm “diều hâu” như La Viện bị gán và từng nhận (từ trái qua: Kiều Lương, La Viện, Kim Nhất Nam
Về “đánh”, tức là một giải pháp sử dụng vũ lực trên biển Đông sẽ khó có thể thực hiện trong bối cảnh hiện nay khi công luận quốc tế đã có sự chú ý và quan tâm đặc biệt.
Quan trọng hơn, Mỹ, Nhật Bản đều khẳng định họ có lợi ích, thậm chí là lợi ích cốt lõi ở biển Đông và phải bảo vệ lợi ích đó. Washington và Tokyo với cấp độ khác nhau đã và đang khởi động chương trình bảo vệ lợi ích của họ trên biển Đông.
Ngoài ra, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia, và thậm chí mới đây nhất là Nga cũng đã lên tiếng bày tỏ quan điểm đối với tranh chấp chủ quyền trên biển Đông. Trong khi những con mắt đang đổ dồn về đây, Trung Quốc không dễ dàng gì để động binh, đánh đấm.
Kịch bản “đánh” ở đây sẽ được thể hiện tương tự như những gì đã diễn ra trên bãi cạn Scarborough: Cho tàu cá Trung Quốc ra khai thác ở các vùng biển, bãi cạn đang tranh chấp để khai thác, nếu tàu công vụ (Cảnh sát biển, biên phòng…) một nước nào đó xua đuổi thì lập tức điều tàu Ngư chính, Hải giám ra tiếp ứng, xong lực lượng này cắm chốt luôn tại chỗ, chiếm quyền kiểm soát.
Tiếp sau đó sẽ là hàng loạt các động thái củng cố lãnh địa như đặt trạm khí tượng, thậm chí xây dựng các kết cấu quân sự trên đảo nổi, đảo chìm hoặc bãi đá không người ở vừa chiếm đóng.
Lực lượng tàu Hải giám, Ngư chính sẽ đóng vai trò quan trọng như một giải pháp “vũ lực mềm” trong âm mưu độc chiếm biển Đông của Trung Quốc
Tất nhiên một kịch bản “đánh” như vậy diễn ra nhanh hay chậm, mạnh hay yếu phụ thuộc rất nhiều vào phản ứng của các bên liên quan, đồng thời Bắc Kinh cũng phải dò thái độ và phản ứng của Mỹ, Nhật Bản. Có thể coi đây là một thủ đoạn sử dụng “vũ lực mềm”, tức là không dùng quân đội chính quy, mà sử dụng lực lượng tàu công vụ “vũ trang phi quân sự” (Hải giám, Ngư chính) để lấn chiếm dần các đảo, bãi đá, bãi san hô trên biển Đông.
Cục diện tranh chấp biển Đông đang có những diễn biến hết sức mau lẹ, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và thậm chí có thể là cả Hàn Quốc, Australia không chỉ còn đơn giản khoanh tay ngồi nhìn như trước, ở những mức độ khác nhau các nước này đang tham gia ngày càng sâu hơn vào tiến trình giải quyết tranh chấp biển Đông.
Về mặt đàm, Trung Quốc sống chết theo đuổi chủ trương đàm phán tay đôi với từng nước, phản đối bằng mọi giá việc đưa tranh chấp lãnh hải ra trọng tài quốc tế và sự can dự của một bên thứ ba. Đối phó với âm mưu này, các bên tranh chấp đang phải dựa vào 3 kênh đàm phán ngoại giao chủ yếu để ngăn chặn ý đồ bá chiếm biển Đông của Trung Quốc.
Ngoại trưởng Philippines Albert del Rosario đã liên tục lên tiếng đưa vụ tranh chấp Scarborough ra công luận quốc tế
Một là đơn phương kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế hoặc tòa án quốc tế về Luật công ước biển Liên Hợp Quốc. Philippines đang tập trung chuẩn bị cho phương án này, bất chấp sự phản đối của Bắc Kinh. 
Hai là thông qua diễn đàn nội khối ASEAN (hội nghị Ngoại trưởng, Bộ trưởng Quốc phòng, thậm chí là hội nghị thượng đỉnh ASEAN), biến ASEAN thành một khối thống nhất đứng ra đàm phán với Trung Quốc. Tuy nhiên phương án này sẽ khó khả thi hơn, mặc dù về mặt đối ngoại luôn phải nỗ lực hết sức đoàn kết ASEAN thành một khối hợp tác về ý chí và hành động  theo đúng ý nghĩa của nó.
Nguyên do của sự khó khả thi đưa ASEAN làm đại diện đàm phán với Trung Quốc là vì, trong 10 nước thành viên ASEAN chỉ có 4 nước tuyên bố chủ quyền, có tranh chấp với Trung Quốc là Philippines, Malaysia, Brunei và Việt Nam mà trọng điểm là Việt Nam và Philippines, các nước còn lại vừa không có quyền lợi trực tiếp tại biển Đông, vừa có quan hệ kinh tế,- thương mại, quốc phòng’– an ninh mật thiết với Trung Quốc.
Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN lần thứ 6 tại Camphuchia vừa diễn ra ngày 29/5/2012 
Nắm được “thóp” này, Bắc Kinh đang ra sức ngăn cản và dường như tác động được đến một số thành viên nội khối ASEAN. Nỗ lực đoàn kết ASEAN thành một khối để đại diện 4 nước đàm phán với Trung Quốc là cần thiết, nhưng khó hiệu quả.
Kết quả của hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN lần thứ 6 và Trung Quốc hôm 29/5 tại Camphuchia chưa đạt được bất cứ tiến triển thực tế nào về vấn đề biển Đông là một điều đáng quan tâm.
Trong bối cảnh đó, Shangri-la 2012, đối thoại an ninh quốc phòng khu vực châu Á – Thái Bình Dương do Singapore tổ chức sẽ trở thành chìa khóa hóa giải nước cờ chia để trị của Trung Quốc trên biển Đông. Đơn giản là vì, nếu như trong ASEAN Bắc Kinh có thể can thiệp khiến cho nước chủ nhà như Camphuchia không đưa chương trình bàn bạc một quy tắc ứng xử trên biển Đông có tính ràng buộc hơn vào nội dung nghị sự, nhưng tại Shangri-la, Bắc Kinh không thể làm điều đó với Mỹ bởi Singapore và Australia – hai quốc gia đăng cai sự kiện đối thoại an ninh này không ủng hộ Trung Quốc.
Trong đối thoại Shangri-la 2011, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ khi đó, ông Robert Gates chủ động đề cập đến vấn đề biển Đông, lợi ích của Mỹ cũng như sự hiện diện của Mỹ tại châu Á – Thái Bình Dương
Thậm chí, trong các nội dung đối thoại này, bản thân các nước thành viên chưa đặt vấn đề thì Mỹ đã đưa vấn đề biển Đông lên bàn hội nghị, không phải họ sốt sắng lo cho đồng minh, mà Mỹ, Nhật Bản và các bên liên quan (Ấn Độ, Hàn Quốc, Australia…) có lợi ích của họ tại khu vực này, họ cần bảo vệ.
Những bên thứ 3 này có chung quan điểm giải quyết tranh chấp lãnh thổ thông qua đối thoại hòa bình, đàm phán đa phương và tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước biển Liên Hợp Quốc.
Điều này cho thấy việc công khai hóa thông tin tranh chấp chủ quyền biển Đông, kêu gọi công luận cộng đồng quốc tế quan tâm và bày tỏ chính kiến về những diễn biến đang xảy ra hàng ngày ở khu vực này đang tỏ ra là một biện pháp lợi hại chống lại âm mưu độc chiếm biển Đông cũng như hạn chế tối đa khả năng Trung Quốc liều lĩnh lấn tới giống như những gì đã và đang xảy ra trên bãi Scarborough đối với Philippines.
Có thể coi đây là một cơ hội thuận lợi cho các bên có tranh chấp chủ quyền trên biển Đông tìm kiếm sự ủng hộ từ cộng đồng quốc tế trong cuộc chiến không cân sức với Trung Quốc cả trên mặt trận ngoại giao – truyền thông lẫn hoạt động trên thực địa. Trung Quốc chí ít sẽ không thể liều lĩnh, thích làm gì thì làm trên biển Đông cũng như trong ứng xử với các bên tranh chấp.
* Những ý kiến, tuyên bố, phân tích, nhìn nhận của các quan chức, chuyên gia, dư luận quốc tế trước, trong và sau khi diễn ra Diễn đàn đối thoại an ninh Sangri-La 2012 (từ 1 – 3/6/2012) sẽ được báo GDVN tiếp tục truyền tải đến bạn đọc.

(GDVN) – Việc công luận đặt giả thiết Trung Quốc muốn gây căng thẳng trên biển Đông trước thềm đối thoại Shangri-la là điều dễ hiểu bởi nó đã có tiền lệ.
Có nhà quan sát tại Hà Nội đã đưa ra những nhận xét đáng chú ý khi cho rằng trước một sự kiện đối thoại an ninh có ảnh hưởng lớn nhất tại khu vực Đông Nam Á như Sangri-La, Trung Quốc thường có các hành động gây rắc rối, phức tạp về chủ quyền lãnh hải với các quốc gia có tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông, cụ thể là đối với Việt Nam và Philippines (5/2011 và 4/5-2012).
Về nhận định này, ông Phan Doãn Phúc, một chuyên gia nghiên cứu độc lập vốn có nhiều kinh nghiệm, đặc biệt trên lĩnh vực truyền thông về vấn đề Biển Đông đã có một số chia sẻ với PV báo điện tử GDVN. Dưới đây là nội dung cuộc trao đổi:
Với tư cách là một người nghiên cứu độc lập về vấn đề Biển Đông, ông đánh giá như thế nào về nhận định Trung Quốc muốn gây căng thẳng trên biển Đông trước thềm đối thoại Shangri-la của nhà quan sát nói trên? Nếu có điều đó, vậy Trung Quốc cố tình gây căng thẳng trước đối thoại Shangri-la nhằm mục đích gì?
Ông Phan Doãn Phúc(ảnh: Lê Dũng)
Việc công luận đặt giả thiết Trung Quốc muốn gây căng thẳng trên biển Đông trước thềm đối thoại Shangri-la là điều dễ hiểu bởi nó đã có tiền lệ. Trước khi diễn ra đối thoại Shangri-la năm 2011, tàu Hải giám Trung Quốc đã vào sâu trong lãnh hải Việt Nam, cắt cáp tàu Bình Minh 02 thuộc tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam là ví dụ, vụ việc căng thẳng trên bãi Scarborough năm nay cũng vậy, nhưng mức độ, tính chất nghiêm trọng hơn.
Vụ cắt cáp tàu Bình Minh mang tính chất “dằn mặt”, đe dọa các bên có tranh chấp, mà trực tiếp là trên vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trong khi vụ Scarborough Trung Quốc không chỉ dừng lại ở “dằn mặt” và đe dọa mà đã lấn thêm một bước táo tợn và liều lĩnh hơn, đó là chiếm quyền kiểm soát bãi cạn Scarborough bằng việc kéo gần 100 tàu thuyền các loại ra bãi cạn này “đánh dấu lãnh địa”. Hơn nữa, ngay sau đó là lệnh cấm đánh bắt cá và dự báo thời tiết trên bãi Scarborough được triển khai.
Khi đặt vấn đề việc Trung Quốc cố tình gây căng thẳng trước thềm đối thoại Shangri-la nhằm mục đích gì, đầu tiên cần khẳng định rõ: Độc chiếm biển Đông là chủ trương xuyên suốt, chiến lược dài hạn và không có gì thay đổi của Trung Quốc.
Để thực hiện được nó Trung Quốc có nhiều mánh khóe khác nhau, thông thường có thể gói gọn lại bằng hai kênh chính: Một là gây hấn, tạo sức ép hoặc chiếm quyền kiểm soát trên thực địa bằng lực lượng “có vũ trang phi quân sự” (Hải giám và Ngư chính), điều này chúng ta thấy rất rõ qua sự kiện cắt cáp tàu Bình Minh năm ngoái, chiếm quyền kiểm soát bãi Scarborough năm nay, kể cả việc tập trận của hạm đội Nam Hải trên biển Đông và kéo tàu “khủng”, dàn khoan “khủng” ra biển Đông.
Kênh thứ 2 là mặt trận ngoại giao và truyền thông (đặc biệt quan trọng) với đặc điểm nổi bật là chiến lược “bẻ từng chiếc đũa”, tức là một mặt Trung Quốc tìm mọi cách áp đặt luật chơi đàm phán tay đôi với từng bên có tranh chấp, ra sức phản đối đưa tranh chấp ra trọng tài quốc tế, mặt khác nỗ lực ngăn cản sự can thiệp của bất cứ bên thứ 3 nào vào vấn đề biển Đông.
Tàu hải giám CMS 84 của Trung Quốc đang hoạt động trên khu vực bãi cạn Scarborough thời điểm tháng 4 và 5/2012
Hiện nay, Trung Quốc đã tạo ra một đội ngũ “học giả” về biển Đông rất hùng hậu, đồng thời thành lập các trung tâm, viện nghiên cứu khác nhau thuộc nhiều ngành, nhiều lĩnh vực nghiên cứu về vấn đề biển Đông.
Những “học giả” này chuyên viết bài bình luận về chủ quyền biển Đông nhằm tuyên truyền, cụ thể hóa quan điểm độc chiếm và bất chấp mọi sự thật lịch sử, lý lẽ của các nước khác sau đó đằng tải trên các kênh truyền thông, báo chí lớn của Trung Quốc và quốc tế theo chiến lược “cả vú lấp miệng em”, “nói nhiều thành quen”.
Đỉnh điểm của chiến dịch truyền thông này là hàng loạt bài xã luận, phân tích, thậm chí bình luận phát sóng trực tiếp về chủ đề biển Đông và căng thẳng trên bãi Scarborough được đăng tải trên Tân Hoa Xã, Nhân dân nhật báo, Quân giải phóng, đài truyền hình trung ương CCTV phát sóng toàn cầu từ sau thời điểm ngày 10/4/2012 khi nổ ra căng thẳng giữa Trung Quốc và Philippines trên bãi cạn Scarborough đến nửa cuối tháng 5/2012.
Bài bản hơn, nhiều diễn đàn/forum trên internet về đề tài “chủ quyền”, quân sự của Trung Quốc ở Biển Đông để thỏa sức tuyên truyền với những thông tin sai lệch, luận điệu hiếu chiến. (xem ví dụ điển hình)
Kênh thông tin này, một mặt mở rộng độ phủ sóng đến một nhóm đối tượng tuổi thanh niên, sinh viên học sinh mà kênh báo chí chính thống đôi khi lại khó tiếp cận, mặt khác thỏa sức tuyên truyền đủ mọi chiêu trò mà không lo phản ứng nào từ các nước liên quan khi họ bóp méo thông tin hoặc bình luận xuyên tạc, chụp mũ đối với các nước này, vì dù sao đó cũng chỉ là một “diễn đàn phi chính thống”
Hai kênh chính có thể ví như 2 gọng kìm Trung Quốc sử dụng để “kẹp chặt” biển Đông bổ sung, hỗ trợ cho nhau, và một điều dễ nhận thấy, nguyên tắc thông thường là khi nào anh chiếm ưu thế trên thực địa khi đó anh sẽ chiếm được thế thượng phong trên bàn đàm phán.
Đó là lý do và cũng là mục đích của những hành động leo thang trên biển Đông thường được Trung Quốc sử dụng trước thềm những hội nghị, diễn đàn an ninh có ảnh hưởng nhất khu vực, đó là tạo thế cho bàn đàm phán.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panettacùng đoàn hộ tống gồm có Tư lệnh Thái Bình Dương Mỹ Samuel Locklear, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ Martin Dempsey, Thượng nghị sĩ John McCain sẽ tham dự Đối thoại Sangri-La 2012 tại Singapore vào đầu tháng 6 tới – sự kiện này cho thấy Mỹ không chỉ nói suông khi chuyển hướng chiến lược sang khu vực châu Á – TBD
Lý do và mục đích thứ 2 của việc Trung Quốc gây căng thẳng trên biển Đông trước thềm đối thoại Shangri-la là vì, hiện tại có 2 cơ chế ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ, phản ứng của các bên liên quan đến tranh chấp biển Đông, một là các hội nghị nội khối ASEAN (Ngoại trưởng, Bộ trưởng Quốc phòng, thậm chí là hội nghị thượng đỉnh ASEAN), hai là diễn đàn an ninh Shangri-la quy tụ các quốc gia Đông Nam Á, đồng thời còn thu hút sự quan tâm của Mỹ và nhiều cường quốc khác.
Cơ chế thứ nhất Trung Quốc dễ gây ảnh hưởng và ít nhiều có thể thao túng được, vì chúng ta biết rằng Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất, có sức ảnh hưởng lớn nhất trong khu vực đối với các quốc gia Đông Nam Á, mặt khác trong 10 nước thì chỉ có 4 nước có tranh chấp biển Đông (Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei) trong khi các nước còn lại không có quyền lợi trực tiếp ở vùng biển này nên Trung Quốc dễ dùng ảnh hưởng của mình để  thay đổi lập trường của nội khối và từng thành viên.
Kết quả hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN lần 6 vừa rồi vẫn chưa có tiến triển nào đáng kể về một bản quy chế mang tính ràng buộc chặt chẽ hơn xung quanh ứng xử của các bên trên biển Đông được đưa ra là một minh chứng.
Trong khi đó, diễn đàn an ninh Shangri-la lại không đơn giản như vậy, Bắc Kinh dù nỗ lực đến mấy cũng khó lòng áp đặt được luật chơi trên biển Đông do mình tạo ra đối với Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia.
Do đó, gây căng thẳng trên biển Đông trước thềm diễn đàn này, một mặt có tác dụng dọa dẫm các bên liên quan có tranh chấp trực tiếp, chia rẽ ASEAN, mặt khác nhằm thử phản ứng của Mỹ và các nước khác đang muốn can thiệp, kết hợp với kênh ngoại giao – truyền thông “xù lông xù cánh” với hy vọng các nước này thấy thế mà nản, từ bỏ hoặc hạn chế can thiệp vào biển Đông.

Theo ông, sau khi Trung Quốc chiếm quyền kiểm soát bãi đá Scarborough bằng lực lượng tàu Hải giám và Ngư chính, Bắc Kinh sẽ có khả năng triển khai những hành động nào tiếp theo đối với bãi cạn Scarborough? (Trung Quốc đã bắt đầu cho dự báo thời tiết đối với khu vực bãi cạn Scarborough)

Việc đầu tiên Trung Quốc làm ngay khi chiếm quyền kiểm soát đối với bãi cạn Scarborough là lập tức gia tăng lực lượng và sự hiện diện của Trung Quốc tại khu vực này. 
Người dân Philippines biểu tình chống Trung Quốc xung quanh vấn đề bãi cạn Scarborough. (ảnh tư liệu minh họa)
Không phải ngẫu nhiên Trung Quốc kéo 92 tàu thuyền các loại ra Scarborough (theo báo cáo của Bộ Ngoại giao Philippines). Điều này rất quan trọng, và về lâu dài Trung Quốc có thực lực duy trì sự hiện diện của nhiều tàu thuyền trên bãi cạn Scarborough hơn là Philippines vì số lượng, quy mô, mức độ hiện đại của lực lượng “tàu công vụ” này của Bắc Kinh hơn hẳn Manila.
Thời điểm này, bên nào không chịu nổi mà rời bỏ bãi cạn Scarborough, thực tế sẽ bị coi như là nhận thua hoặc từ bỏ chủ quyền. Cũng như báo chí cũng đã đề cập, sắp tới mùa mưa bão, 1 tàu cảnh sát biển và 1 tàu thuộc Cục thủy sản Philippines đang trực ban trên khu vực bãi cạn Scarborough sẽ phải tìm nơi trú ẩn trong khi những tàu lớn của Trung Quốc có thể bám trụ ngay cả khi xảy ra mưa bão.
Thực tế về mặt truyền thông, rất nhiều học giả theo đuổi đường lối cứng rắn của Bắc Kinh cũng lên tiếng kêu gọi Trung Quốc “chơi đến cùng” với Philippines trên bãi Scarborough, điển hình như La Viện, thiếu tướng, chuyên gia phân tích tình hình biển Đông.
Việc thứ 2 Trung Quốc đã triển khai là ban hành “lệnh cấm đánh bắt cá” trên biển Đông mà trọng tâm là khu vực Scarborough để tạo cớ cho lực lượng Hải giám, Ngư chính ra tay xua đuổi, bắt bớ tàu thuyền Philippines hoặc nước khác nếu họ đến vùng biển này trong khi theo Bộ Ngoại giao Philippines chính ngư dân Trung Quốc đang ra sức vơ vét tài nguyên ở đây, bất chấp cái gọi là “lệnh cấm” của Bắc Kinh. 
Tàu cá khổng lồ được giới truyền thông Trung Quốc đặt tên là “hàng không mẫu hạm” chuẩn bị được tung ra biển Đông với mục đích khai thác tài nguyên nghề cá
Ít nhất về mặt truyền thông chính thống, Bắc Kinh khẳng định hiện tại có khoảng 20 tàu cá đang hoạt động tại bãi cạn này.
Việc thứ 3, ngay sau khi chiếm quyền kiểm soát bãi cạn Scarborough, Trung Quốc đã lập tức triển khai hoạt động dự báo thời tiết, khí tượng thủy văn tại khu vực bãi Scarborough, một động thái khẳng định cái gọi là chủ quyền, đồng thời hỗ trợ ngư dân, tàu thuyền nước này hoạt động thuận lợi hơn tại khu vực họ vừa chiếm quyền kiểm soát.
Việc thứ 4, đây là một khả năng không loại trừ Trung Quốc sẽ xây dựng các cấu kiện, công trình quân sự mang tính bền vững tại bãi cạn Scarborough giống như những gì họ đã làm với Đá Vành Khăn nằm trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam năm 1995, 1999.
Việc Trung Quốc kéo 92 tàu, trong đó có 6 tàu hàng hải công vụ hiện đại ra Scarborough có thể ít nhiều phục vụ cho mục đích đó. Tuy nhiên, Philippines đang nỗ lực kiểm soát thông tin về các hoạt động của tàu thuyền Trung Quốc tại khu vực này.
Nhiều nhà phân tích chiến lược nhận định rằng, chiến thuật đoản kỳ của Trung Quốc trong tranh chấp chủ quyền biển Đông là “mềm nắn rắn buông”, nhưng họ không bao giờ ngừng chiến lược dài hạn “Tàm thực” – tằm ăn dâu, hay nói cách khách là gặm nhấm dần biển Đông. Theo ông, chiến lược ngắn hạn và dài hạn đó của Trung Quốc trên biển Đông thời gian vừa qua có gì thay đổi hay không, khả năng diễn biến trong thời gian tới sẽ như thế nào sau khi kiểm soát được Scarborough? Trung Quốc sẽ đẩy mạnh chiến lược “tàm thực” hay duy trì hiện trạng? Tại sao?
Như đã đề cập ở phần trên, độc chiếm biển Đông là chiến lược xuyên suốt, chiến lược dài hạn của Trung Quốc.
Về mặt chiến lược cũng như cách thức mà Trung Quốc lựa chọn nhằm đạt được ý đồ ấy trong giai đoạn hiện nay theo tôi đã có sự điều chỉnh, thay đổi theo hướng đẩy mạnh chứ không còn duy trì hiện trạng.
Trong khoảng 3 đến 5 năm trở lại đây, tiềm lực kinh tế và sức mạnh quân sự Trung Quốc không ngừng gia tăng, thời kỳ “nằm im chờ thời” mà Đặng Tiểu Bình đặt ra đã sắp kết thúc để bắt đầu một thời kỳ mới “Trung Quốc trỗi dậy”.
Quan sát những động thái cũng như tuyên bố ngày càng mang tính thách thức, cứng rắn trên biển Đông sẽ thấy rất rõ điều đó: Tăng cường xây dựng các cơ sở quân sự tại Tam Á, Hải Nam, tăng mạnh trang bị cho lực lượng “công vụ có vũ trang phi quân sự” (Hải giám và Ngư chính), chuẩn bị chiến dịch tận thu, khai thác tài nguyên biển Đông bằng các tàu khủng, dàn khoan siêu cỡ…
Theo đánh giá của cá nhân ông, có hay không khả năng Trung Quốc lặp lại kịch bản đã diễn ra trên bãi cạn Scarborough đối với những bãi cạn, bãi ngầm, đảo không người và đảo có người trên Biển Đông, Biển Hoa Đông  cụ thể  đó là việc cho tàu cá Trung Quốc hoạt động mạnh tại các vùng biển tranh chấp, nếu một bên cho tàu chức năng phi quân sự ra xua đuổi, ngăn chặn (thường là cảnh sát biển hay lực lượng bảo vệ bờ biển theo cách đặt tên của từng nước), lực lượng tàu Hải giám, Ngư chính sẽ lập tức vào cuộc, và khi kiểm soát được vùng biển đó rồi thì Trung Quốc sẽ không chịu nhả mà sẽ tiếp tục có các động thái leo thang đánh dấu lãnh địa và khẳng định cái gọi lài chủ quyền? Tại sao?
Ba tàu Hải quân Nhật Bản đang có chuyến thăm tới Philippines cuối tháng 5/2012
Kịch bản Scarborough vừa qua đã diễn ra một cách khá “hoàn hảo” và đạt được hầu hết các mục đích Trung Quốc đặt ra: Chiếm quyền kiểm soát, mở rộng phạm vi xâm chiếm, tăng thực lực đồng nghĩa với tăng sức ép trên bàn đàm phán ngoại giao, thăm dò được phản ứng của các bên liên quan…
Về câu hỏi có hay không khả năng Trung Quốc lặp lại kịch bản đã diễn ra trên bãi cạn Scarborough đối với những bãi cạn, bãi ngầm, đảo không người và đảo có người trên Biển Đông, tôi nghĩ các nhà hoạch định, đánh giá chiến lược của các quốc gia có liên quan mới là những người tỉnh táo và có các đánh giá, phán đoán đầy đủ và toàn diện nhất.
Ở góc độ nhìn nhận cá nhân, tôi cho rằng hoàn toàn có khả năng Trung Quốc sẽ lặp lại kịch bản ấy, chúng ta có thể thấy ngay như Nhật Bản cũng phải vội vã vào cuộc giúp Philippines tăng cường khả năng phòng thủ, kiểm soát trên biển.
Tokyo cũng nhận thấy, kịch bản Scarborough hoàn toàn có thể lặp lại với Senkaku chứ không riêng gì biển Đông.
Tuy nhiên kịch bản ấy diễn ra nhanh hay chậm, và có “thuận” như những gì diễn ra trên Scarborough hay không phụ thuộc rất nhiều vào các hành động cụ thể của các bên liên quan cũng như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ trong thời gian tới.

Theo ông, sự hiện diện và quay trở lại của Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương nói chung, khu vực biển Đông nói riêng sẽ ảnh hưởng như thế nào đến cục diện giải quyết tranh chấp chủ quyền trên biển Đông? Những động thái vừa qua của quân đội Mỹ cũng như các phát biểu của chính khách Mỹ về tranh chấp biển Đông sẽ ảnh hưởng như thế nào đến sách lược của Trung Quốc về biển Đông? Các bên liên quan nên ứng xử như thế nào với Mỹ và bên thứ 3 quan tâm, ủng hộ quan điểm giải quyết tranh chấp biển Đông qua đàm phán hòa bình, đa phương và tuân thủ luật pháp quốc tế?

Theo cá nhân tôi, sự hiện diện và quay trở lại biển Đông của Mỹ sẽ có vai trò quan trọng và tác động trực tiếp đến cục diện giải quyết tranh chấp. Vai trò của Mỹ tại biển Đông đang ngày một gia tăng sẽ là trở lực lớn nhất đối với Trung Quốc trong tiến trình thực hiện chiến lược, ý đồ độc chiếm biển Đông, đồng thời là cơ hội cho các bên còn lại nâng cao vị thế của mình trên bàn đàm phán với Trung Quốc, ngăn chặn các hành vi khiêu khích, thúc đẩy quá trình đàm phán giải quyết tranh chấp theo cơ chế đàm phán hòa bình, đa phương, trọng tài quốc tế.
Sự thay đổi quan điểm của Mỹ được đánh dấu bằng phát biểu, Mỹ có lợi ích cốt lõi ở biển Đông được Ngoại trưởng Hillary Clinton đưa ra ngày 23/7/2010 tại Hà Nội. Tuy nhiên từ đó đến nay, do còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố nên sự trở lại của Mỹ mới dừng ở mức “quan điểm” chứ chưa có hành động nào cụ thể.
Một số nhà phân tích cho rằng đây cũng có thể là một phần lý do khiến Trung Quốc trở nên liều lĩnh hơn trên biển Đông. Tuy nhiên khi chứng kiến những lợi ích chiến lược của mình tại biển Đông và châu Á Thái Bình Dương đang bị đe dọa bởi sự “trỗi dậy” của Trung Quốc, Mỹ đã bắt đầu có những hành động thực tế.
Cụ thể là việc tàu ngầm tấn công USS North Carolina bất ngờ nổi lên tại cảng Subic gần Scarborough trong lúc căng thẳng Trung Quốc – Philippines tăng cao có thể coi như một thông điệp cứng rắn từ Mỹ.
Ngoài ra, năm nay Mỹ sẽ tiếp tục viện trợ cho Philippines, bán tàu chiến cho Philippines. Đặc biệt, sự có mặt và hối thúc Thượng viện Mỹ thông qua việc Mỹ phê chuẩn Công ước biển Liên Hợp Quốc của Ngoại trưởng, Bộ trưởng Quốc phòng và Chủ tịch hội đồng tham mưu liên quân Mỹ trong phiên điều trần vừa qua tại Ủy ban đối ngoại Thượng viện, cùng phát biểu của Thượng nghị sĩ John McCain “không thể để Trung Quốc muốn làm gì thì làm trên biển Đông” đã cho thấy, người Mỹ không nói đùa.
Trong bối cảnh đó, các bên có tranh chấp chủ quyền trên biển Đông cần tranh thủ thực tế này để nâng cao vai trò, vị thế của mình trên bàn đàm phán, kiên trì nguyên tắc đàm phán hòa bình, đa phương, thông qua trọng tài quốc tế, đoàn kết các bên, tận dụng tối đa sự hỗ trợ từ bên ngoài, nhất là Mỹ, Nhật Bản và các nước có mối quan tâm cũng như chung quan điểm giải quyết tranh chấp biển Đông qua đàm phán đa phương và trọng tài quốc tế. Theo tôi, cụ thể có mấy việc các bên liên quan cần làm:
Cái Trung Quốc sợ nhất là đưa tranh chấp ra tòa án quốc tế vì họ chẳng có bằng chứng gì thực tế và thuyết phục để khẳng định đòi hỏi chủ quyền của họ trên biển Đông thì các bên liên quan nên tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Ấn Độ để dấy lên sự quan tâm của công luận quốc tế đối với vấn đề biển Đông.
Về mặt đối ngoại – truyền thông, hiện nay Trung Quốc đang thực hiện chiến dịch truyền thông “đông át thưa”, nói nhiều thành quen và tổ chức một cách quy mô, bài bản, hệ thống nhằm áp đảo truyền thông đối phương. Các nước có tranh chấp cần thấy rõ điều này, để một mặt vạch rõ chiêu trò truyền thông đánh lận con đen của Trung Quốc, mặt khác phải đẩy mạnh tuyên truyền về chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải đến người dân cũng như công luận thế giới, cụ thể ở đây là các kênh truyền thông đa ngôn ngữ (điều này Trung Quốc đang làm rất tốt).
Đưa chủ quyền biển đảo vào nội dung giáo dục ý thức cũng như kiến thức về chủ quyền lãnh thổ, kể cả giáo dục nhà trường qua sách giáo khoa cũng như giáo dục xã hội thông qua báo chí, truyền thông, kịp thời phân tích những âm mưu, ý đồ, toan tính độc chiếm biển Đông, xâm phạm lãnh hải.
Tìm kiếm, xây dựng và thúc đẩy các ý tưởng hợp tác đa phương; Phát huy tinh thần hòa hiếu, yêu chuộng hòa bình, luôn muốn là bạn, là đối tác vốn là truyền thống tốt đẹp ngàn đời của dân tộc Việt. Bên cạnh đó, cần dần dần nâng cao năng lực phòng thủ, luôn luôn cảnh giác trước mọi hoạt động của các thế lực hiếu chiến và các diễn biến phức tạp trên biển Đông; Củng cố, hoàn thiện chiến lược biển, tạo nền tảng và căn cứ pháp lý vững chắc; Xây dựng đội ngũ chuyên gia, trung tâm nghiên cứu các vấn đề chủ quyền lãnh thổ trên biển Đông, đặc biệt là chuyên gia về Luật Công ước biển Liên Hợp Quốc.
Xin cảm ơn ông!

Không có nhận xét nào: