Pages

Thứ Năm, 7 tháng 6, 2012

KHÓ KHĂN CỦA TRUNG QUỐC TRONG GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG


TTXVN (Hồng Công)
Bài phân tích trên tờ “Tín báo ” ngày 22/5 của Ngô Phi – Tiến sĩ phát thanh truyền thông Đại học Moscow, Giáo sư Đại học Ký Nam chuyên gia nghiên cứu quan hệ quốc tế và an ninh chiến lược về vấn đề này nội dung như sau:
Cùng với lệnh cấm đánh bắt cá, tranh chấp đảo Hoàng Nham giữa Trung Quốc với Philippin lần đầu tiên dừng lại, song vấn đề mà Trung Quốc gặp phải tại Hoàng Nham cũng như các đảo ở Nam Hải (Biển Đông) vẫn chưa được giải quyết, các đảo ở Biển Đông đã trở thành “bom tự sát” lớn nhất đối với ngoại giao.
Theo tác giả, Trung Quốc có 2 vấn đề lớn nhất đối với các đảo ở Biển Đông: một là, Trung Quốc không có điều luật bảo vệ lợi ích của mình tại Biển Đông, Trung Quốc chủ yếu dựa vào hiệp thương song phương với các nước liên quan, một khi các nước này nuốt lời, Trung Quốc cũng không có biện pháp nào chống lại; hai là, Trung Quốc chưa đối mặt với vấn đề Mỹ đề xuất “phi quân sự hóa Biển Đông”, song Mỹ lại đóng quân hoặc có liên minh quân sự với Philippin, Thái Lan hay Xinhgapo, nếu như sau này Trung Quốc khống chế toàn bộ Biển Đông, Mỹ và Trung Quốc sẽ ở vào trạng thái đối đầu quân sự toàn diện tại đây.

Cựu Tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ Joseph Wilson Prueher cho biết lần này Biển Đông xuất hiện vấn đề, Mỹ chủ yếu là bên quan sát, và quan tâm chính của Mỹ có 3 điểm: Thứ nhất, thái độ của các nước Đông Nam Á đối với Trung Quốc như thế nào? Trong tương lai các nước Đông Nam Á có liên minh phát triển lực lượng quân sự với Mỹ hay không? Thứ hai, liệu Bắc Triều Tiên có nhân lúc bạo loạn lần này gây ra khủng hoảng trên bán đảo Triều Tiên hay không? Mức phối hợp của Kim Châng Un với Mỹ có cao hơn thời kỳ Kim Châng In hay không? Thứ ba, năng lực của Trung Quốc khi đồng thời khống chế bán đảo Triều Tiên và Biển Đông như thế nào? Sự khảo sát của Mỹ đến nay cơ bản đều đã có câu trả lời đầy đủ.
Trong vấn đề Biển Đông, nếu không thể giải quyết một cách căn bản, thì. Trung Quốc chỉ có thể áp dụng chiến tranh quy mô vừa và nhỏ đế giải quyết các vấn đề gặp phải trên biển, bởi nếu không thì các nước xung quanh và Nhật Bản vĩnh viễn sẽ không biết giới hạn cuối cùng của Trung Quốc trong vấn đề lãnh hải nằm ở chỗ nào. Trung Quốc đang ở vào giai đoạn kinh tế phát triển nhanh, quân sự cũng trong giai đoạn được nâng cao, vậy trong bối cảnh Mỹ và các nước Đông Nam Á chưa thấy rõ được “lá bài tẩy” của Trung Quốc, liệu Trung Quốc có sử dụng lực lượng quân sự của mình để biến thành thách thức hay không?
Hồi đầu những năm 1980, kinh tế Liên Xô đang trong giai đoạn phát triển, song do sai lầm trong việc áp dụng biện pháp quân sự tại Ápganixtan khiến nước này vấp phải thách thức trên hàng loạt hoạt động ngoại giao, quân sự, cho đến khi rút khỏi Ápganixtan thì Liên Xô tan rã.
Sau khi trỗi dậy hoàn toàn, liệu Trung Quốc có sử dụng biện pháp quân sự trong vấn đề Biển Đông hay không? Điều này đang trở thành tiêu chí chủ yếu để Trung Quốc xử lý các công việc quốc tế trong tương lai. Nếu bình tĩnh xử lý thì giới hạn đỏ của biện pháp này nằm ở đâu? Mềm nắn rắn buông? Trong quá trình phát triển cải cách kinh tế trước đây, Trung Quốc chưa hề dấy binh tại Biển Đông.
Trước năm 2008 dưới thời Trần Thủy Biển, khi đối mặt với thách thức Đài Loan độc lập, Trung Quốc cơ bản giao lưu với Quốc Dân đảng và Dân Tiến đảng là chính, giới hạn cuối cùng của Trung Quốc đối với Đài Loan không rõ ràng, giới hạn cuối cùng của việc sử dụng vũ lực cũng chưa rõ ràng, sau khi luật chống Đài Loan độc lập ra đời, “lá bài tẩy” của Trung Quốc mới dần hiện rõ, điều kiện Trung Quốc tấn công Đài Loan là chỉ cần “Đài Loan tuyên bố độc lập, hoặc nội bộ Đài Loan xuất hiện vấn đề, nội loạn”.
Ba năm gần đây, vấn đề của Trung Quốc tại Biển Đông chủ yếu là thái độ ngoại giao luôn lặp lại. Lúc đầu, lợi ích cốt lõi của Trung Quốc chủ yếu liên quan vấn đề Tây Tạng, Tân Cương và quan hệ hai bờ. Mặc dù rất nhiều tổ chức nhân quyền Mỹ quấy rối Tây Tạng và Tân Cương, một số tổ chức chính trị Mỹ cũng quấy nhiễu vấn đề Đài Loan, song Chính phủ Mỹ luôn giữ thái độ không can thiệp đối với vấn đề Tây Tạng và Tân Cương, trong vấn đề Đài Loan cũng chủ yếu dừng lại ở Đạo luật quan hệ Đài Loan. Mặc dù trong rất nhiều trường hợp Trung Quốc cho rằng Mỹ thực hiện chính sách hai mặt, song cơ bản Mỹ vẫn không thách thức lợi ích cốt lõi của Trung Quốc.
Sau khi Trung Quốc đưa Biển Đông vào lợi ích cốt lõi của mình, các nước Đông Nam Á 3 năm gần đây đẩy mạnh việc nhập khẩu vũ khí, Ấn Độ và Đông Nam Á đều kiếm lí do tốt nhất để nhập khẩu vũ khí, khiến lực lượng quân sự các nước này bắt đầu ngóc đầu dậy.
Lợi ích của Mỹ liên quan tới vấn đề Biển Đông cũng rất rõ ràng, giới cấp cao Mỹ từng nhấn mạnh Mỹ sẽ là khách hàng lớn nhất đối với dầu lửa và khí đốt tự nhiên ở Biển Đông trong tương lai. Trung Quốc đương nhiên có khả năng lợi dụng tài nguyên Biển Đông, do đó làm thế nào kiểm soát được lực lượng quân sự của Trung Quốc tại Biển Đông, bảo đảm tự do hàng hải là vấn đề chủ yếu của ngoại giao Mỹ.
Trung Quốc từng đưa ra “gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác”, song liệu Trung Quốc có đóng quân tại các đảo ở Biền Đông, để sau đó phát triển các đảo bãi thành căn cứ tiếp tế cho các chiến hạm hay không? Nếu có, nó sẽ tạo ra mối đe dọa đối với quân đội Mỹ đồn trú tại Philippin và Đông Nam Á. Các vấn đề này cho thấy cả Trung Quốc và Mỹ đều chưa rõ giới hạn cuối cùng của đối phương trong quá trình đàm phán.
Trung Quốc là một đế quốc già cỗi đang trỗi dậy, vấn đề Biển Đông của Trung Quốc khá giống với vấn đề Ápganixtan mà Liên Xô gặp phải năm xưa – vị trí địa chính trị quan trọng; và dường như chỉ có thể giải quyết thông qua biện pháp quân sự; mọi quốc gia liên quan đến Biển Đông đều không có giới hạn cuối cùng nào, không biết thế nào mới thỏa mãn nhu cầu hợp lý và bất hợp lý của lợi ích bản thân.
Nếu như Trung Quốc sử dụng quân sự đối với các đảo ở Biển Đông, bao gồm cả đảo Hoàng Nham, xét về lâu dài thì “hại nhiều hơn lợi”, chủ yếu là bởi điều kiện chiến tranh vẫn chưa chín muồi.
Do đang trỗi dậy nên trong quan hệ đối ngoại, Trung Quốc thường quen dùng phương thức ngoại giao tiền bạc và buôn bán, song vấn đề lớn nhất của ngoại giao tiền bạc nằm ở chỗ quan chức ngoại giao Trung Quốc khó có hiểu biết sâu sắc về tình hình nội chính của quốc gia địa phương, hoặc sau khi hiểu sâu rồi, do “ăn sổi”, chỉ thiên về bên chấp chính, khi phe chống đối giành chính quyền lại có sự thay đổi mang tính căn bản về chính sách đối với Trung Quốc.
Nhân tố tâm lý tiềm tàng của dân chúng Trung Quốc khi muôn áp dụng biện pháp quân sự tại Biển Đông nằm ở chỗ: Trung Quốc trỗi dậy, về chính trị và kinh tế có đủ năng lực xử lý sự gây hấn của các nước xung quanh, nếu như Trung Quốc hiện vẫn chưa đủ sức mạnh thách thức Nhật Bản, thì cũng đủ khả năng ra đòn đối với các hành vi hỗn xược của Philippin tại Biên Đông, sau này thậm chí cũng có thể ra đòn với Việt Nam.
Tuy nhiên, nếu tấn công Philippin, hành động này lập tức sẽ mang lại cơ sở vững chắc để các nước Đông Nam Á liên kết với nhau về chính trị và kinh tế để đối phó với Trung Quốc, đồng thời cũng khiến các nước này bắt đầu tính đến việc làm thế nào phát triển một liên minh Đông Nam Á không có Trung Quốc, và tất nhiên cũng mang lại cho các nước lý do tuyệt vời để đẩy mạnh việc nhập khẩu vũ khí.
Sai lầm lớn nhất của ngoại giao Trung Quốc kế từ sau năm 1949 là quay mặt gây chuyện với Liên Xô khiến ngoại giao Trung Quốc luôn ở vào cục diện bị động, cho đến tận sau chuyến thăm của Nixon, Trung Quốc mới từng bước chuyển mình. Sau năm 2012, nếu như Trung Quốc quay lại gây chuyện với các nước ASEAN, điều này liệu có lặp lại kịch bản của Liên Xô đánh Ápganixtan năm xưa hay không, tức Trung Quốc bắt đầu đi vào giai đoạn suy thoái? Đây thực sự là một bài học rất đáng để chính phủ, ngoại giao và người dân Trung Quốc coi trọng./.

Không có nhận xét nào: