Pages

Thứ Năm, 4 tháng 10, 2012

Một cách nhìn về lịch sử xung đột Việt-Hoa.

Phạm Dzũng

Nhìn tổng thể về lịch sử loài người kể từ khi còn là những bộ lạc, người ta ghi nhận sự hình thành, phát triển hoặc tiêu vong của các cộng đồng dân cư (sắc tộc, bộ lạc, xã hội thành thị…), của nhiều định chế chính trị và quyền lực quân sự, như là các quốc gia, các đế quốc, và ngay cả của nhiều nền văn minh. Tất cả những diễn trình lịch sử đó đều tuân theo quy luật biến dịch, mà trong đó có quy luật thiên nhiên khắc nghiệt: “đấu tranh sinh tồn”, thể hiện qua hiện tượng di dân và đồng hóa (kể cả bị đồng hóa). Hiện tượng này đã liên miên xảy ra từ hàng vạn năm trước và sẽ còn xẩy ra bây giờ và sau này.
Lịch sử xung đột Việt-Hoa. Nguồn: VAOL
Vậy nếu áp dụng cách nhìn hiện tượng học "Lịch sử xã hội loài người là lịch sử di dân và đồng hóa (và bị đồng hóa)", thì có thể thấy rõ động lực của nhiều chu kỳ biến động lịch sử trên thế giới từ xưa đến nay. Cũng từ cách nhìn này, có thể tiên liệu được động thái của nước lớn đối với các nước lân bang nhỏ hơn,và nếu ứng dựng vào lịch sử xung đột Việt Hoa sẽ nhìn thấy được bản chất đảng cầm quyền CSVN ngày nay cùng các sách lược của nó về nội trị và ngoại giao, dựa vào điều kiện và lịch sử hình thành và phát triển của nó, qua đó đánh giá được các chính sách, chiến lược nó đã và đang thực hiện (kể từ 1929), cũng như tiên liệu được kế sách của đảng cầm quyền khi đối phó với thời thế, cùng những hệ lụy của nó đối với tương lai của đất nước VN và nhất là đối với sự tồn tại của dân tộc Việt.


Cũng nên ghi nhận rằng, về bản chất (định nghĩa), thì:

-“Quốc Gia (hay Nước, Đất Nước)” chỉ là một Định chế chính trị (political institution) của một vùng lãnh thổ có dân cư; Định chế thì có tính ngắn hạn và dễ thay đổi, thí dụ: Nước Chiêm Thành đã tiêu tan, Quốc-gia Việt Nam Cộng Hòa nay đã không còn nữa (thay thế bằng Nước CHXHVN Việt Nam), Nước Mỹ (Hợp chủng Quốc Mỹ Châu) thì mới có mặt từ khoảng 400 năm nay.

-“Tổ Quốc” là một khái niệm tình cảm cộng đồng đối với khu vực địa lý mà một cộng đồng dân cư đã sinh sống qua nhiều thế hệ, thí dụ: người Việt ở Mỹ chỉ vài ba thế hệ nữa là đa số dù muốn hay không cũng sẽ không còn thiết tha đến đất nước Việt, mà sẽ chỉ còn biết Tổ Quốc mình, Đất nước mình là Mỹ Quốc.

-“Dân tộc” là một tập hợp sinh học thuần nhất của những cư dân sinh sống trong một vùng địa lý.

Như vậy, “Dân tộc” là một thực thể, do đó tồn tại lâu dài hơn là những định chế và tình cảm cộng đồng, và cũng là yếu tố căn bản cho Quốc Gia hoặc một cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, sự hình thành một Quốc Gia ổn định lâu dài là điều kiện cần để hình thành và phát triển nền văn hóa và văn minh đặc trưng của một dân tộc hoặc cộng đồng dân cư, cho nên nếu mất nước là sẽ mất tất cả. Một dân tộc khi đã bị nô lệ và đồng hóa thì bao nhiêu thành tựu về văn hóa rực rỡ trong cả nghìn năm lịch sử may lắm cũng sẽ chỉ còn lại một số di chỉ khảo cổ nằm im trong lòng đất hoặc trong Viện Bảo Tàng.

Lịch sử chiến tranh xâm lược trên thế giới cho thấy, vào thời cổ đại người thưa đất rộng, chiến tranh xâm lược giữa các bộ tộc chủ yếu là để cướp bóc tài sản, việc giết chóc chỉ là để thỏa mãn cơn hiếu chiến. Đến thời kỳ các đế quốc du mục, phong kiến và thực dân, thì chiến tranh xâm lược còn là để mở rộng lãnh địa, bóc lột tài nguyên và khai thác lao động nô lệ, việc giết chóc xảy ra lớn lao hơn nhưng chỉ là để tiêu diệt lực lượng võ trang chống đối . Tuy nhiên không thấy xảy ra các biện pháp diệt chủng văn hóa với ý đồ đồng hóa người bản xứ. Nhiều trường hợp kẻ thống trị lại bị đồng hóa bởi kẻ bị trị (td: Đế quốc Mông Cổ chiếm đóng ở Ấn Độ, Nga, Tàu …). Hiện tượng đồng hóa và bị đồng hóa như vậy đã xảy ra một cách tự nhiên và chậm chạp, vì không xuất phát từ chính sách xuyên suốt của nước lớn, chỉ trừ ở Trung Hoa, và khởi đầu với đế quốc Hán .

Hán Cao Tổ sau khi lên ngôi, đã tiếp tục mộng gồm thâu thiên hạ của Tần Thủy Hoàng. Để thực hiện ý đồ này, ngoài việc tiếp tục xử dụng các biện pháp quản lý xã hội chặt chẽ của Tần Thủy Hoàng (do Lý Tư chủ xướng), Hán Cao Tổ còn áp dụng và phát triển học thuyết Khổng Tử theo hướng có lợi nhất cho sự thống trị và bành trướng của chế độ quân chủ Trung Quốc, từ đó trở đi, các triều đại phong kiến Tàu đều tiếp tục truyền thống của Hán để xác định và bảo vệ tính chính danh của vương triều (giống như các đế quốc Âu Châu xử dụng học thuyết Ki Tô giáo để vậy). Ngay từ thời Đế Quốc Hán, đã hình thành một chính sách thôn tính toàn thể thiên hạ bằng sách lược đồng hóa tinh vi, lâu dài, nhằm triệt để diệt chủng văn hóa các nước bị chiếm đóng, biến họ thành nô lệ tự nguyện. Chính sách diệt chủng văn hóa các nước nhỏ là đặc điểm của chủ nghĩa Đại Hán (*1), rất dễ nhận thấy trong suốt lịch sử xâm lăng và chiếm đóng các nước lân bang của các triều đại phong kiến Tàu. Điển hình ở nước Việt ta dưới ách nô lệ của nhà Minh: đốt hết sử sách và tác phẩm trước tác trong nước, bắt cống nạp nho sinh, thầy thuốc, thợ khéo… bắt phải ăn mặc và cư xử theo mẫu mực Tàu, phong tục, luật lệ phải bắt chước theo Tàu v..v…

Lịch sử và khảo cổ học đã chứng minh nhiều dân tộc (sắc tộc, bộ lạc, quốc gia…) ở vùng Hoa Nam, lưu vực sông Dương Tử đã bị xâm lược và đồng hóa bởi những sắc dân Hoa Bắc (Hán tộc)- Những sắc tộc nào di dân được xuống Đông Nam Á thì tồn tại được đến ngày nay mà không (hoặc ít) bị đồng hóa, là nhờ địa thế hiểm trở, khí hậu nhiệt đới, và sức sống (dân khí)(*2) của dân tộc đó.

Khuynh hướng nam tiến là bắt buộc đối với người phương bắc (Bắc Á: Mông, Mãn, Hán …), vì không thể bắc tiến và tây tiến được, và cũng vì cần hướng phát triển ra biển và khai thác tài nguyên biển-

Người Việt cũng vậy, sau nhiều đợt di dân và quần cư ở đồng bằng sông Hồng, sông Mã, tạm yên được với Bắc phương vài ngàn năm nhờ vào địa hình biên giới hiểm trở, cũng phải nam tiến, thôn tính và đồng hóa Chiêm Thành, Chân Lạp (nửa nước Miên) (*3), chuẩn bị tây tiến và bắc tiến bằng con đường từ phía Đông Nam (nếu thôn tính xong Miên) để thôn tính Lào. Mộng gồm thâu Đông Dương (hoặc thành lập Liên bang Đông Dương) của người Việt vẫn được ôm ấp kể từ thời các vua chúa nhà Nguyễn, vì địa lý nước Việt rất bất lợi cho sự thống nhất, an ninh lãnh thổ và phát triển kinh tế, văn hóa: rặng Trường Sơn phía Tây làm cho miền Trung quá hẹp, rất dễ bị đứt khúc ở khoảng vĩ tuyến 16-17 như lịch sử đã từng chứng minh (Trịnh Nguyễn phân tranh từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, Hiệp Định Geneve tk. 19). Địa lý các nước Miên, Lào cũng bất lợi không kém. Chỉ khi hình thành được “Liên bang Đông Dương”, mở rộng địa lý đất đai và dân số thì mới hy vọng chận đứng chiến tranh xâm lược của nước lân bang phía Bắc.

Khi Thực dân Pháp lập được ách đô hộ trên toàn cõi Việt Nam (Hòa ước Giáp Tuất 15/3/1874), thì lục tỉnh miền tây nam bộ mới được nhập vào VN được khoảng năm mươi năm. Trước đó một chút, nếu VN canh tân kịp đồng thời với Nhật, thì nhiều phần chắc là cho tới ngày nay VN đã kiểm soát được cả Thái Lan, Miến Điện, và trở thành mối đe dọa lớn đối với Tàu, vì biết chừng đâu sẽ có đủ thế lực để đòi lại đất cũ là Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam, thực hiện được hoài bão của vị vua anh hùng Quang Trung. (Nhưng cũng chưa biết chừng, khi gồm thâu được đất cũ, người Việt lại bị Hán hóa giống như dân Mông, Mãn, vì dân số Việt ít hơn, và văn hóa đặc trưng cũng không cao hơn, mạnh hơn….)

Về lãnh vực Chủng Tộc học, nhìn chung, luật thiên nhiên chung cuộc vẫn là cạnh tranh và sinh tồn. Chủng tộc nào đoàn kết, mạnh, khôn ngoan, sanh đẻ nhiều, chấp nhận mạo hiểm, chấp nhận di dân và lai giống thì sẽ ưu thế hơn các chủng người khác. Mông cổ, Mãn Thanh về quân sự mạnh hơn Hán, nhưng cũng bị Hán hóa vì dân số Hán đông hơn và văn hóa cao hơn, hơn nữa, còn tự nguyện bị đồng hóa, vì dân Mông, Mãn vẫn thán phục, ưa chuộng văn hóa Hán tộc; Tiến trình xâm lăng và di dân đồng hóa với địa phương của dân du mục Bắc Á (Mông, Mãn … ) đã xảy ra từ cả vạn năm nay, cho nên nếu xét về gene, thì nhiều dân tộc đã có lai gene Mông Cổ mà không biết: Hoa,Việt (Mường), Hàn, Thái, Nhật, và một số vùng bên Ấn, Hồi, Nga v.v… (*4)Xem ra, diễn trình di dân và lai giống đối với loài người là không thể đảo ngược. Thời Hoa Kỳ lập quốc, những di dân từ Âu Châu qua đã xóa sổ hàng triệu người bản xứ Mỹ Châu (vốn thuộc các chủng tộc Mongoloid Á châu). Nhưng ngày nay, sự hình thành và phát triển nước Mỹ Hợp Chủng trên cơ sở các định chế dân chủ sẽ là mô hình thích hợp nhất cho diễn trình này một cách nhân bản, khác hẳn với sự hình thành các đế quốc kiểu phong kiến, thực dân, hoặc phát xít và cộng sản.

Xuyên suốt lịch sử, người Tàu từ Hoa Nam di dân liên tục vào VN và các nước Đông Nam Á từ rất lâu trước cả thời phong kiến bắc thuộc, hoặc vì tha phương cầu thực, hoặc tìm không gian sinh tồn hoặc qua chiến tranh xâm lược (*5), hoặc là hệ lụy các biến động chính trị cận đại, td. Thiên Địa Hội phản Thanh phục Minh, biến cố chiến tranh như Thế chiến 2 (Giải giáp phát xít Nhật). Khi họ vào ít, và không kèm tổ chức chính trị bang hội thì họ bị Việt đồng hóa, td: người Tiều (Triều Châu: Minh Hương) ở miền Trung, lục tỉnh miền Tây và Rạch Giá …, nhưng nếu họ vào nhiều và có tổ chức bang hội, thì họ thành lập khu vực riêng có tiềm năng trở thành khu tự trị (td: Chợ Lớn) (*6), nếu họ tổ chức được chính quyền thì họ tách ra làm quốc gia riêng: Singapore, Đài Loan ..., không chịu tùng phục chánh quốc nữa, giống như thời xa xưa An Dương Vương xâm lăng đánh thắng Vua Hùng, và rồi Triệu Đà (207-137BC) sau khi thắng An Dương Vương vậy (*7)
Người Tàu cũng như người Việt, có đầu óc phong kiến, có mộng làm vua một cõi, đồng thời cũng có thói thần phục kẻ mạnh (*8), là kẻ có tài gồm thâu thiên hạ. Thời xưa (trên 3000 năm trước) vốn không có nước Tàu (Trung Hoa), vùng đất đai rộng lớn đó là nơi sinh sống của rất nhiều sắc dân của hàng trăm nước lớn nhỏ, kể cả rất nhiều bộ lạc vùng rừng núi xa xôi, họ luôn luôn đánh nhau để thôn tính thêm đât đai và nô lệ (thời Xuân Thu, Chiến Quôc), chỉ sau thời Đông Chu liệt quốc, Tần Thủy Hoàng thôn tính xong 6 nước cuối cùng, nước Tàu mới thống nhứt, gọi là Trung Hoa. Nên biết nước Tần của Tần Thủy Hoàng thời Đông Chu trở về trước vốn là một sắc dân ở tây bắc nước Tàu, là giống dân lai giữa Mông Cổ và Thổ Nhĩ Kỳ (Ulghur: Thổ Phồn, Hồi Hột), tạo nên người Hoa Bắc, vốn gốc du mục nên rất thiện chiến và hung bạo (*9). Như vậy nước Tàu hình thành do chiến tranh xâm lược. Lịch sử hình thành nước Tàu là lịch sử xâm lăng và đồng hóa bằng bạo lực chiến tranh. Khi Tàu mạnh cũng vậy, mà khi Tàu yếu, lại càng cần tìm thế chính thống hoặc đánh lạc hướng những bất mãn và khủng hoảng nội bộ bằng cách gây chiến với các lân bang nhỏ yếu. … Chủ nghĩa Đại Hán thời cổ chỉ nhằm diệt chủng văn hóa để dễ đồng hóa, nhưng Chủ Nghĩa Bành trướng Bá Quyền Đại Hán hiện đại được thực hiện bởi Đảng CS Tàu còn tàn bạo và tinh vi hơn một bực, vừa diệt chủng văn hóa (bằng triết học bạo lực CSCN), vừa diệt chủng dân số nhằm triệt để hóa diệt chủng văn hóa, và dọn đường cho di dân Tàu tràn qua, vì dân số Tàu nay đã quá đông, thiếu không gian sinh tồn, thiếu đường ra biển để bành trướng và khai thác tài nguyên..

Trên thế giới từ xưa tới nay, sự kiện các nước tìm cách ảnh hưởng khống chế lẫn nhau là điều không thể không xảy ra, cũng như sự kiện các nước lớn tìm cách can thiệp, khống chế hoặc xâm lăng các nước nhỏ bằng quân sự, kinh tế, hoặc chính trị (qua sự thành lập và yểm trợ các thế lực chống đối trong nước) để thôn tính đất đai, bóc lột tài nguyên và lao động, hoặc đặt căn cứ quân sự … cũng là không thể tránh được. Những lời tuyên bố hữu nghị kiểu “láng giềng 4 tốt”’ hoặc “16 chữ vàng” chỉ là bề ngoài, chỉ là thủ thuật chính trị để ru ngủ, lừa bịp. Chỉ khi nào có được dân khí cường thịnh, đoàn kết một lòng để xây dựng một nền kinh tế phát triển (như Nhật, Hàn) đồng thời có chánh sách ngoại giao và liên minh khôn khéo (như Thái, Phi luật Tân, Miên…), thì mới tạo nên một thực lực làm cho nước ngoài phải kiêng nể, mới giữ được độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ, hạn chế hoặc khống chế được các can thiệp từ nước ngoài. Tiếc thay, điều này dường như đã và đang không thực hiện được ở Việt Nam.

Vậy sẽ có phần thiếu sót cho cả 2 phe người Việt (Quốc, Cộng…) và các bình luận gia khi gọi cuộc chiến ở Việt Nam 1954-1975 là chiến tranh Ý- thức- hệ (quốc cộng, giai cấp ... ), hoặc giải phóng (chống Mỹ cứu nước). Ngay cả chiến tranh giải thực trước 1954 cũng đã bị Tàu, kể cả Trung Hoa Dân Quốc (*10), lợi dụng chiêu bài đồng minh, đồng chí, hữu nghị, cố vấn vv…, ngoài mặt là giúp đỡ, nhưng bề trong là để thực hiện cả 1 kế sách chi tiết, thâm sâu, lâu dài để thâm nhập sâu, tạo quyền lực mềm, tiêu diệt cho bằng hết mọi mầm mống đối lập (gồm cả những nhà ái quốc có tư tưởng dân tộc độc lập hoặc chống CS, chống Tàu), tạo ảnh hưởng văn hóa (Hủy diệt văn hóa địa phương, truyền bá văn hóa phong kiến khuyển nho, hoặc chủ nghĩa Cộng Sản…), ảnh hưởng quân sự (qua các lớp đào tạo sĩ quan, quân nhân, chuyên viên), cài thế lực chính trị (cài đạt, mua chuộc, dung dưỡng những nhân vật thân Tàu hoặc không có tinh thần dân tộc vững chắc vào các cấp chính quyền). Tàu không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để dùng ảnh hưởng vô cùng lớn của mình để thực hiện kế sách “Tằm ăn dâu”, không chỉ trong những thời kỳ có chiến tranh, mà cả trong những thời kỳ có vẻ thân thiện hữu nghị Tàu vẫn dùng mọi cách, hoặc trực tiếp qua áp lực quân sự, chính trị, hoặc gián tiếp qua tình báo và phản tình báo gây chia rẽ, hoang mang và lũng đoạn nội bộ để làm yếu thế lực Việt, băng hoại tinh thần dân tộc Việt, văn hóa Việt, và cả cơ cấu tổ chức xã hội Việt, tạo điều kiện để xâm lăng như họ đã từng làm trong suốt chiều dài lịch sử.

Ví dụ : Cuộc Cải Cách Ruộng Đất đẫm máu để thực hiện đấu tranh giai cấp cuồng tín kiểu Mao-ít, vụ án Nhân Văn giai phẩm rập khuôn theo chiến dịch Trăm Hoa đua nở của Tàu (Bách gia tề phóng, bách hoa tề khai)…. không thể không xảy ra vì nó nằm trong sách lược lâu dài, trong âm mưu thôn tính VN của Tàu (cộng với sự phục tùng của các lãnh tụ CS Việt)Thực chất là chỉ mượn màu đấu tranh giai cấp để che mắt mọi người, nhằm che dấu dã tâm chính là= 1/- tiêu diệt sớm những người có tinh thần dân tộc trong hàng ngũ Việt Minh, họ là những tinh hoa của dân tộc Việt, họ đều có học, đều xuất thân từ những gia đình khá giả hoặc tương đối khá giả (do đó dễ bị quy kết vào giai cấp địa chủ bóc lột), họ đã hy sinh tất cả để theo cách mạng vì lý tưởng chống thực dân để giải phóng dân tộc, họ đã hết lòng chiến đấu dưới lá cờ Việt Minh do chủ nghĩa yêu nước, họ có uy tín trong dân rất cao sau nhiều chiến thắng quân sự (dĩ nhiên là với sự giúp đỡ có hậu ý của CS Tàu). Nếu những người này không bị tàn sát, thì sau này họ chắc chắn sẽ là những đảng viên cao cấp, những nhà lãnh đạo chính trị quân sự có tài và có tinh thần dân tộc, sẵn sàng bảo vệ tổ quốc trước dã tâm xâm lược của bọn bành trướng bá quyền Đại Hán- 2/ làm cho những thành phần còn lưng chừng và đám dân nghèo nàn, cùng khổ, thất học thêm sợ hãi mà khuất phục tuyệt đối. Chính sách diệt chủng văn hóa này đã được thực hiện triệt để ở Bắc Việt, và rất thành công: hầu như tất cả lãnh đạo CS người miền Bắc và Trung đều khuất phục vì sợ hãi, có người phải tuyên bố từ bỏ giai cấp bằng cách đấu tố chính cha mẹ mình (td: Trường Chinh)-

Rõ ràng là trong kế sách xâm lược tằm ăn dâu của Tàu thì cần phải triệt sớm những lãnh tụ tương lai này trong hàng ngũ Việt Minh, và dùng khủng bố để triệt tiêu mọi mầm mống chống đối, có vậy thì về lâu về dài Tàu mới nắm chắc được đảng cầm quyền CSVN để thực hiện những bước thôn tính kế tiếp.

Đối với miền Nam vì ở xa, tình hình chính trị sau 1954 không thuận lợi, nên không thực hiện được CCRĐ, cho nên mới còn sót lại một số cán bộ ghét Tàu (kín đáo), điển hình là Lê Duẩn, tuy vậy trước đó lãnh đạo Đảng CS đã ra lệnh giết một số lãnh tụ CS ở miền Nam có tinh thần dân tộc như nhóm CS Đệ tứ (1945) (Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trẩn văn Thạch …) và tướng Nguyễn Bình (1951) (*11).

Do vậy, phải nhìn thấy cuộc CCRĐ tắm máu không phải là do sư sai lầm của các lãnh tụ CSVN hoặc sự ngu muội của cấp thừa hành, mà là sự cài đặt sắp xếp có bài bản và áp lực cực lớn của Tàu (có cả 1 đoàn cố vấn Tầu, đặc trách về CCRĐ bên cạnh Bộ chính trị Đảng CSVN lúc đó) (*12).

Không nhìn thấy rằng dã tâm cực kỳ thâm độc này của Tàu nếu được thực hiện sẽ ảnh hưởng sâu xa lâu dài thế nào đối với vận mệnh dân tộc và đất nước, thì thì quả là các lãnh tụ CSVN quá ngây thơ, không xứng đáng là nhà lãnh tụ, và vẫn phải chịu trách nhiệm với lịch sử, với nhân dân.

Nhưng nếu đã nhìn thấy dã tâm muôn thuở này của Tàu mà vẫn đang tâm nhắm mắt tàn sát đồng chí , đồng đội, đồng bào thì phải gọi là gì đây? Chính danh thì phải gọi đó là tay sai cho giặc, là phản quốc, là bán nước, là có nợ máu với nhân dân-

Chỉ cần nhìn lại lịch sử và suy nghĩ về cuộc CCRĐ “trời long đất lở” mà bề ngoài thì xem ra vô lý này cũng đủ để thấy sự thật về bản chất của lãnh tụ và tập đoàn lãnh đạo đảng CSVN ngay từ 1956, thế mà tới nay đã hơn nửa thế kỷ vẫn còn quá nhiều người còn hoang mang, vẫn bị tuyên truyền và khẩu hiệu lừa bịp, vẫn bị tiếp tục lừa gạt, vẫn tôn sùng những bàn tay nhuộm đầy máu đồng chí, đồng đội, những bàn tay đã và sắp đẩy muôn triêu đồng bào vào cái chết để thực hiện dã tâm diệt chủng và xâm lược của Tàu. Nếu cứ tiếp tục ngây thơ như thế này mãi thì thế nào cũng phải bị mất nước vào tay Tàu-

Vụ Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968 mà lực lượng chính là quân đội miền Bắc xâm nhập, đã thất bại về mặt quân sự (*13 ), nhưng nó là tiếp tục xuyên suốt sách lược chính trị độc tôn độc tài vốn là bản chất của lãnh đạo CS Bắc Việt, do vậy phải thấy mục tiêu bề trong thâm sâu của chiến dịch đó chính là nhằm tiêu diệt những người chiến đấu chống chính quyền miền Nam (VNCH) vì lý tưởng dân tộc chủ nghĩa (tin rằng Mỹ xâm lăng VN như kiểu Tây thực dân), do đó đã phá nát lực lượng chính trị và quân sự hậu thuẫn cho phe MTGP miền Nam, có tiềm năng chia xẻ hoặc chống đối lại quyền lực chính trị của lãnh đạo CS Bắc Việt. Miền Bắc đã thành công trong mục tiêu đó, vì đã mượn tay lực lượng VNCH miền Nam để làm triệt tiêu trên 70% lực lượng chiến đấu cũa MT Giải Phóng Miền Nam. Nhờ đó sau 1975, miền Bắc có thể áp đặt quyền lực chính trị và mô hình kinh tế giáo điều XHCN trên toàn miền Nam mà không bị phe miền Nam chống đối, cho dù kinh tế XHCN làm cho miền Nam phá sản, sắp chết đói.

Cũng như các vua chúa nhà Nguyễn với đầu óc phục Tàu, sợ Tàu đã làm cho Việt Nam mất cơ hội hiện đại hóa như nước Nhật cùng thời, đầu óc của những người lãnh đạo CSVN từ xưa tới nay cũng là phục Tàu, sợ Tàu, chắc không mấy người thấy được sự hiểm độc của Chủ Nghĩa CS đối với sự tồn tại của Quốc gia và dân tộc VN. Mặc dù trong Đảng CSVN cũng có người thấy được bản chất bành trướng bá quyền Đại Hán và dã tâm xâm lược của lãnh đạo CS Tàu (phe Lê Duẩn sau 1975), và tìm cách chống trả, nhưng khổ thay, do bị ngộ độc tư tưởng bởi nọc độc Chủ Nghĩa CS (*14), nên sau khi chiếm được miền nam, liền áp dụng chính sách kỳ thị chánh trị đối với người miền nam, nhất là đối với những cựu quân nhân viên chức của phe thua trận, gây nên chia rẽ dân tộc. Đồng thời vẫn giáo điều áp đặt kinh tế XHCN vào miền Nam VN làm cho nền kinh tế đang lên này bị bức tử, phá sản, tức là vẫn trúng kế của kẻ thù phương Bắc (chia rẽ dân tộc, phá hoại sinh lực kinh tế…), đồng thời chiến lược chống đối với Tàu mà dựa vào độc nhất có một nước đồng minh duy nhất theo XHCN còn lại là Liên Xô như trước đây, là 1 nước cờ bấp bênh (nước xa không cứu được lửa gần), và đã thất bại, khiến cho sự tồn vong của VN càng ở vào cái thế nguy hiểm hơn, vừa mất thêm đất đai (sau khi thua cuộc chiến biên giới Việt-Hoa 1979 và 1983), vừa lệ thuộc Tàu nặng nề thêm về mặt chính trị (sau khi Liên Xô sụp đổ). Điều này gây hậu quả tai hại nghiêm trọng cho tiềm lực nước Việt, và chứng tỏ bản lãnh chính trị kém cỏi của lãnh đạo Đảng CSVN, ít ra là vào thời điểm quan trọng đó (*15). Thử nghĩ xem, nước Mỹ sau cuộc Nội chiến Nam Bắc tàn khốc không thua gì ở Việt Nam, phe thắng trận miền Bắc nếu cũng cư xử với phe thua trận miền Nam như ở VN sau năm 1975, thì đâu có được 1 nước Mỹ hùng mạnh như ngày nay ?

Nga (Liên xô) vốn âm mưu dùng Chủ Nghĩa CS để thôn tính cả thế giới, kể cả Tàu, dưới chiêu bài Thế Giới Đại Đồng, nhưng Tàu to quá, Nga nuốt không nổi- Sau này kinh tế kiểu XHCN thất bại, nên Nga Xô Viết xụp đổ, không giữ được những nước nhỏ mới thôn tính được sau thế chiến II - Nhưng Tàu dùng CNCS làm bình phong thì dù thất bại về kinh tế (khi chưa đổi mới theo kiểu tư bản), vẫn có thể thôn tính được các nước Đông Dương, vì kinh tế XHCN nếu làm cho Tàu yếu một, thì sẽ làm cho các nước nhỏ bị yếu 10 lần hơn, đảng cầm quyền do bị cô lập với thế giới tư bản, sẽ phải càng phải lệ thuộc vào đàn anh để có chỗ dựa chính trị, hầu giữ vững quyền lực và quyền lợi-

Rốt cuộc các diễn biến ở VN từ 1927 dường như đều thuận lợi cho sách lược nam tiến ngàn năm không ngưng nghỉ của Tàu. Nghĩ cho cùng, về thực chất sâu xa lịch sử Việt-Tàu từ xưa đến nay toàn là Tàu đánh Việt, toàn là Tàu giấu mặt trá hình, dùng mọi thủ đoạn thâm độc tìm cách làm cho Việt đánh lẫn nhau mà suy yếu đi để dễ nuốt, dân mình Bắc Nam đều chỉ là nạn nhân, các lãnh tụ CSVN hoặc không biết, hoặc bị sai khiến, cũng chỉ là con cờ trong bàn tay phù thủy mà thôi.

Có một điều đáng tiếc, là ở miền Nam VN sau 1954, nếu ông Ngô Đình Diệm có tư tưởng cởi mở hơn, thì đã có thể kéo dài Đệ nhất Cộng Hòa thêm một thời gian đủ để xây dựng được tiềm lực vững mạnh dựa vào sự đoàn kết các đảng phái, tôn giáo và ủng hộ sâu rộng của quần chúng để tạo sức mạnh chống lại sự thao túng của Mỹ và thủ đoạn tuyên truyền của CS, giống như Lý Thừa Vãn, Phác Chính Hi cùa Đại Hàn, Lý Quang Diệu của Singapore cùng thời. Vậy thất bại của ông NĐD phát xuất từ tư tưởng cổ hủ của ông- Xuất thân từ một gia tộc quan lại, bản thân vốn cũng là một đại quan của Vua Bảo Đại, ông cũng như các anh em của ông đã không thể thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa Tống Nho lỗi thời của phong kiến Tàu. Chính đầu óc phong kiến nặng nề đó đã làm cho một lãnh tụ yêu nước như ông Diệm (*16), sau khi lên làm Tổng Thống của nền Đệ Nhất Cộng Hòa miền Nam Việt Nam, không những không phát triển được mối quan hệ hợp tác với các đảng phái QG và các lực lượng chống cộng khác (Cao Đài, Hòa Hảo …) để xây dựng nền dân chủ pháp trị, mà lại còn bị ảnh hưởng của bọn xu nịnh, đưa chế độ trở thành gia đình trị kiểu hoàng thân quốc thích, khiến cho chính quyền rơi vào tình trạng xa rời quần chúng, tạo điều kiện cho địch (kể cả Mỹ) tuyên truyền phá hoại, và như thế là đưa nền cộng hòa còn quá non trẻ đến chỗ sụp đổ quá sớm, không đủ thời gian để xây dựng một hệ thống chính trị và quân sự hoàn toàn mới cho phe Quốc Gia (không còn tàn dư của thời Pháp thuộc qua sự lưu dụng những công chức và sĩ quan cao cấp được Pháp đào tạo). Vậy là lại mất đi thêm một cơ hội để phục hưng sức mạnh Việt tộc chống lại âm mưu xâm lược của Tàu.

Chúng ta nay đã đều biết ai đứng đàng sau Mặt Trận Việt Minh (trước 1954) và MT Giải Phóng Miền Nam (trước 1975) để giựt giây? chính là đảng CSVN, con đẻ của Quốc Tế III (Nga Xô), tay sai của đảng CS Trung Hoa. Từ lâu, CS Tàu muốn và đã dùng chủ nghĩa CS đễ thôn tính các nước Đông Dương, mở rộng biên cương xuống phía Nam để làm chủ biển Thái Bình và cả vùng Đông Á. Trong ý đồ đó, miếng xương khó nuốt nhất vẫn là một nước VN thống nhất và hùng mạnh.

Từ 3000 năm nay Tàu thất bại hoặc rất khó khăn khi muốn xâm lăng và đồng hoá VN vì ý chí dân tộc VN còn mạnh, may quá, nay Tàu vớ được Chủ Nghĩa Cộng Sản, dùng ngay mục tiêu hoang tưởng là “Đấu tranh giai cấp để tiến đến Thế Giới Đại Đồng”, tạo ra một thứ chính nghĩa ảo, kiểu “Thiên Đàng hạ giới”, lừa gạt những người cùng khổ, nhẹ dạ, cả tin, hoặc kém suy luận, kém tinh thần dân tộc để che đậy ý đồ xâm lược (của Tàu) và âm mưu bán nước (của thành phần tay sai, thân Tàu trong Đảng CSVN)-

Chiến tranh giải thực ở VN vốn không cần đổ máu nhiều đến thế (do phe phái đánh lẫn nhau, thanh toán nội bộ, đánh thí quân kiểu tấn công biển người….), nhưng với âm mưu làm yếu Việt, Tàu đã xúi dục, cổ võ, yểm trợ cho chiến tranh và phân hóa. Nhìn bề ngoài, thì giống như người Việt chống Pháp, Việt Minh đánh Việt Gian … nhưng thực ra là Hán tộc (Tàu) đánh Việt tộc bằng cách dùng ngay người Việt (Việt Minh) đánh người Việt (các đảng phái Quốc Gia, hoặc phe thân Pháp …). Lực lượng Việt tộc (chính quyền Quốc Gia, các đảng phái Quốc Gia, các tôn giáo…) biết rõ sự phụ thuộc vào Cộng Sản Tàu, Nga của các lãnh tụ Việt Minh, nhưng vì không có chỗ dựa nên đành phải dựa vào Pháp để chống Cộng, mà do Pháp thua, phải ký HĐ Geneve, nên phải cùng chạy xuống miền Nam qua Vĩ tuyến 17-

Sau đó, Tàu lại tiếp tục xúi Việt đánh Việt bằng chủ nghĩa CS và yểm trợ ồ ạt về quân sự cho Mặt Trận GPMN do CS miền Bắc dựng lên, đưa quân Tàu giả dạng Việt vào miền Bắc (*17) để miền Bắc có thể xua toàn lực thanh niên Bắc Việt vào quân Giải Phóng xâm nhập miền Nam (sinh Bắc tử Nam), một công 2 việc, vừa gây chiến tranh huynh đệ tương tàn làm suy yếu dân Việt, vừa lan tràn ảnh hưởng xuống Đông Nam Á-

Ý đồ của Tàu về căn bản là muốn chiếm cả 3 nước Việt, Miên, Lào, đặt dưới sự cai trị của một chính quyền tay sai, để rồi đưa dân Tàu sang và từ từ đồng hóa như họ đang thực hiện đối với Tân cương, Mãn Châu, Nội Mông và Tây Tạng. Ở VN, nếu CS Bắc Việt chiếm được nốt miền Nam VN, có nghĩa là các lực lượng Việt tộc đã di cư vào miền Nam sau năm 1954 và những hậu duệ của họ, cộng thêm tất cả những người miền Nam và những lực lượng chính trị quân sự miền Nam nào còn tinh thần dân tộc hoặc chống CNCS sẽ không còn đất sống, họ sẽ hoặc phải trốn chạy, di tản ra nước ngoài, hoặc phải bị tù đày và tiêu diệt. Tàu luôn luôn muốn gây ra cho Việt những tai nạn làm mất máu lớn như vậy. Tuy nhiên Tàu không bao giờ vội vàng trong âm mưu xâm lược, nếu thấy không chắc điều khiển được tập đoàn lãnh đạo VN, thì Tàu vẫn chỉ muốn thấy một Việt Nam chia đôi (*18) và đánh giết lẫn nhau cho đến khi kiệt quệ càng nhiều càng tốt,.Tàu lại càng hoan nghênh nếu ở VN xảy ra cuộc diệt chủng giống như ở Kampu Chia với Khmer đỏ vậy- Đây là điều dễ hiểu cho bất cứ ai có ít nhiều kiến thức chính trị.

Như vậy, cuộc Đại thắng mùa Xuân 1975 của CS Bắc Việt làm cho đất nước VN thống nhất, về căn bản vốn là thuận lợi cho ý đồ của Tàu như đã nói ở trên, nhưng cũng không được sự ủng hộ của CS Tàu. Lý do là vì lúc đó còn Liên Xô, và Đảng CSVN do phe Lê Duẩn lãnh đạo thì thân Liên Xô. Lê Duẩn chống đối với Mao Trạch Đông không phải vì ông là người có tinh thần dân tộc (*19 ), mà vì ông là một người có tham vọng quyền lực mãnh liệt, muốn làm vua một cõi, muốn xây dựng một kiểu Cộng Sản Dân tộc tương tự như nhóm Cộng Sản Đệ Tứ (Troskist), và không muốn bị chia quyền hoặc lép vế bởi phe thân Tàu (Trường Chinh). Thiển nghĩ, nếu ông Lê Duẩn có trình độ hiểu biết cao hơn, thì có thể đã không bị “Ngộ độc tư tưởng” bởi CN Cộng Sản, và lịch sử đã không diễn biến bất lợi thêm cho dân ta. Như vậy Việt tộc đã lại mất thêm một dịp mayđể phục hưng và vươn lên cùng thời đại.

Như vậy, sau 1975, mặc dù bề ngoài trông giống như phe Xã Hội CN thắng phe Tư Bản, phe Bắc Việt thắng phe Nam Việt, hoặc là Giải Phóng Miền Nam thắng Mỹ … nhưng thực ra vẫn là Tàu thắng Việt, vì Tàu đã thành công trong âm mưu dùng người Việt đánh người Việt, dùng người Việt truy bức người Việt, làm cho 2 miền đều kiệt quệ, chết người, hại của, căm hờn lẫn nhau, gây thêm hận thù chồng chất.

Nhớ lại, sau khi dàn xếp thỏa hiệp được với Tàu để dồn nỗ lực làm suy yếu Nga, Mỹ phản bội đồng minh, bỏ rơi VNCH, làm ngơ cho Tàu chiếm đoạt Hoàng sa của VN, cắt hết quân viện làm cho miền Nam thất trận 1974 (*20 ) Sau đó miền Bắc xé bỏ thỏa thuận trước đây với MTGPMN (giữ miền Nam trung lập trong 2 năm rồi mới hiệp thương thống nhất 2 miền), Đảng CSVN áp đặt ngay chế độ độc tài đảng trị, chính sách kỳ thị chính trị và nền kinh tế giáo điều XHCN trên cả nước bằng cách cào bằng lực lượng sản xuất miền nam với các chiến dịch đánh Tư sản và đổi tiền (thực chất là cướp tài sản), cô lập hoặc xua đuổi những người có tinh thần dân tộc, kể cả các lãnh tụ của phe Miền Nam (Mặt Trận GPMN). Một số lớn nhân lực (vài trăm ngàn thanh niên trẻ và chuyên gia các ngành nghề quân sự, dân sự, khoa học kỹ thuật….) có tiềm năng chống Tàu hoặc xây dựng kinh tế rất lớn bị lừa vào các trại cải tạo, thực chất là các trại tù. Một số lớn dân chúng có tiềm năng xây dựng nền công nghiệp và kinh tế thị trường bị cưỡng bức đi khai khẩn vùng hoang vu (gọi là vùng kinh tế mới), bị chết chóc và đàn áp dữ dội. (*21)

Sự kỳ thị chính trị một cách quá khích và nền quản trị quá kém cỏi đã làm Kinh tế cả nước phá sản (*22), tinh thần người dân bị suy sụp, người dân bị đẩy đến chỗ cùng quẫn đến nỗi phải vượt biển ra nước ngoài cả triệu người, là một con số rời bỏ quê hương đất nước rất lớn chưa từng có trong trong lịch sử VN- Cả triệu người, đại đa số là dân thường, kể cả dân miền Bắc (nhất là từ Hải Phòng) phải liều lĩnh chạy ra khơi bỏ quê hương mà ra đi về nơi xứ lạ quê người, bất kể chết chóc và cướp biển (khoảng 1/3 vùi thây trong biển cả), điều đó nói lên được sự cùng quẫn thất vọng của người dân đối với nền cai trị ở VN, đó thật sự là 1 sự mất máu (bleeding) rất lớn cho phe Việt tộc, cho lực lượng dân tộc chống xâm lăng về lâu về dài. Và như vậy là đã trúng thâm ý Tàu: là chia rẽ, phá hoại đoàn kết dân tộc, phá hoại tiềm lực kinh tế …Tàu còn xúi dục, yểm trọ Kmer Đỏ tàn sát người Việt và tấn công biên giới tây nam để khích VN phải xua quân qua Kam pu Chia, tốn người, hại của, mất uy tín đối với quôc tế(*23). Vậy mà Tàu vẫn giả đò tức giận, lấy lý do VN xâm lăng Kam pu Chia, xua quân tấn công biên giới phía bắc, rõ ràng là ném đá dấu tay rồi lại thừa cơ để mượn cớ xâm lăng, cũng giống như trong lịch sử, Tàu luôn luôn nhân cơ hội nước ta suy yếu hoặc nội loạn để mà mượn cớ xâm lăng.

Cũng phải ghi nhận rằng cuộc tàn sát của Kmer Đỏ làm chết gần 2 triệu người Miên (21% dân số ) về bản chất cũng là 1 cuộc “cải cách” còn triệt để và đẫm máu hơn là Cải Cách Ruộng Đất ở VN, vốn là đòn độc hiểm của Tàu (Kmer đỏ là Mao-ít, rất tôn sùng Mao Trạch Đông) (*24), dùng người Miên giết người Miên để khống chế người Miên về lâu về dài, dùng Kmer Đỏ để răn đe, phá hoại Việt, giống như Tầu đang kề 1 lưỡi dao sẵn sang để đâm ngang hông Việt. Thảm họa diệt tộc của dân Miên trực tiếp là qua bàn tay Kmer đỏ, nhưng chính CSVN đã đưa Pon Pot, Iêng Sary và Kmer đỏ về Miên và giúp chúng lật đổ chế độ Lon Nol. Do vậy, đây cũng đồng thời là âm mưu của Đảng CSVN, dùng Kmer đỏ để làm yếu dân Miên hầu thực hiện mộng Liên Bang Đông Dương (*25).

Tóm lại Tàu muốn nuốt VN và Đông Nam Á thì đã phải chuẩn bị tình huống "tằm ăn dâu” (nuốt từ từ). Sau khi đã chuẩn bị từ năm 1927 với tay sai là Hồ chí Minh và Đảng CSVN, đến nay Tàu đã chiếm được các cao điểm quân sự ở biên giới phía Bắc (Ải Nam Quan, Đồi Lão Sơn …), làm chủ vùng biển VN, đóng quân trên Tây nguyên, lật đổ ảnh hưởng của VN tại Lào và Campuchia , bao vây VN trên bộ và ngoài biển, gài người nắm các chức vụ then chốt trong Bộ Chính trị CSVN và guồng máy an ninh & quốc phòng VN, tiêu diệt các lực lượng dân tộc, triệt hạ ý chí dân tộc, phá hoại kinh tế, văn hóa và xã hội VN thông qua nhà cầm quyền tay sai khiếp nhược (hèn với giặc, ác với dân). Trong tình hình hiện tại, Đảng CSVN sợ dân hơn sợ giặc, không những không dám có thái độ mạnh đối với bọn xâm lược, mà lại còn đàn áp thô bạo những người yêu nước biểu tình chống giặc ngoại xâm, thì với khí thế dân tộc yếu nhược như vậy, không thể nào chống được âm mưu xâm lược của kẻ địch, vì vậy, không bao lâu nữa Tàu sẽ có thể nuốt được miền Bắc, thành lập chính phủ tay sai (như Bắc Hàn).

Dĩ nhiên là trong khối quần chúng đông đảo, kể cả trong lực lượng vũ trang, nhất là quân đội, cũng còn nhiều người yêu nước, có tinh thần dân tộc mạnh, họ không thể chịu đựng được nỗi nhục mất nước, làm tay sai, làm nô lệ cho Tàu, họ sẽ tập họp lại thành thế lực chống đối đủ mạnh. Và vì mất chính nghĩa, chánh phủ tay sai của Tàu cũng sẽ bị suy yếu và chia rẽ, rốt cuộc VN sẽ lại bị tách ra làm 2 như tình thế trước 1954, phe chống Tàu sẽ rút về miền Nam, đảng Cộng Sản VN sẽ phải sụp đổ, vì đến lúc này con cờ "Đảng CS" hoặc “XHCN” sẽ hoàn toàn mất hiệu quả, trở thành lạc hậu và phản động, lúc đó là lúc sẽ nhiều nhân vật hoặc đảng chính trị với danh nghĩa phục quốc, chống cộng ... xuất hiện để tranh chấp chính quyền miền Nam- Như vậy thì bàn cờ sẽ có tiềm năng quay lại cái thế tương tự thời 1945 với các đảng phái quốc gia và mặt trận Việt Minh, rồi thì sẽ tới thế cờ sau 1954 với Mặt Trận Giải phóng miền Nam- Mặc dù lịch sử diễn biến, nhưng đại thể vẫn sẽ là bổn cũ soạn lại mà vẫn còn hiệu lực, vì trải qua một vài thế hệ, sẽ không còn bao nhiêu người còn nhớ được tình tiết thực hiện những mưu toan chính trị bán nước trong quá khứ, nhất là đối với thế hệ trẻ mà không được học sử Việt trong tinh thần yêu nước, giữ nước một cách chân chính. Do đó, những bàn tay lông lá cũ đã, đang và sẽ chuẩn bị những lá bài mới cho giai đoạn mới (từ 1975). Một cuộc “giải phóng miền Nam” nữa sẽ có cơ lại được dàn dựng để gạn lọc cho hết những thành phần còn ý thức mạnh về độc lập dân tộc… cho đến khi toàn thể Đông Á trở thành Tàu hoặc phiên bang của Tàu.

Còn Mỹ thì sao? nếu VN mất vào tay Tàu thì Mỹ cũng đâu có thiệt gì đâu? Chiến lược lâu dài của Mỹ là giữ vững thế siêu cường số một- Chiến lược cốt lõi của Mỹ vẫn là bảo vệ và phát triển lợi nhuận các đại công ty tài phiệt và công kỹ nghệ- Đối với Mỹ, quyền lợi là trên hết, cho nên Mỹ vốn là cần Tàu hơn là cần VN (*26). Thông qua nhà cầm quyền độc tài đảng trị CS Tàu, Mỹ không cần xâm lăng đất đai của Tàu cũng vẫn bóc lột được 1 tỷ rưỡi người Tàu-

Mỹ cũng chẳng sợ gì Tàu, nhưng sẽ không gây chiến để tiêu diệt Tàu, vì không có lợi- Mỹ đã thắng Nga thế nào thì cũng sẽ tính là về lâu dài sẽ thắng Tàu bằng cách tương tự, Mỹ sẽ làm Tàu phải phình to ra và tự nổ thành nhiều mảnh, y như Nga Xô Viết vậy, dù biết trước mà vẫn không tránh được.... Từ nay cho tới lúc đó, thì nếu Tàu mà ra mặt đụng độ với Mỹ, Mỹ chỉ cần xù nợ hoặc không mua hàng là Tàu sẽ gặp khó khăn rất lớn, có thể có nội loạn ngay nếu cả trăm triệu người thất nghiệp do cấm vận.... Dĩ nhiên Mỹ cũng sẽ gặp khó khăn kinh tế, vì đã có phần nào phụ thuộc vào hàng hóa rẻ tiền nhập từ Tàu. Vậy thì Mỹ cũng sẽ thỏa hiệp với Tàu để chia đôi VN giống như nước Cao ly (Hàn quốc)- Thế cờ xa sắp tới là cả 2 đều chuẩn bị thử sức nhau lâu dài ở miền Nam VN, ở biển Đông. Bọn họ đã và đang chuẩn bị rồi đó, vận mệnh dân ta nay rất là mong manh, nếu dân khí đã tuyệt, thì chỉ còn phú cho ông Trời thôi.... và nếu không phục hưng lên kịp, VN sẽ vẫn chỉ là 1 quân cờ, và vẫn còn là nơi chiến trường trắc nghiệm-

Sau 80 năm thuộc Pháp, với chính sách bóc lột về kinh tế và chia để trị về chính trị (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ với 3 chế độ cai trị khác nhau), Thực dân Pháp đã làm cho VN khá kiệt quệ và chia rẽ. Đến khi Mao nhờ viện trợ của CS Nga, đánh thắng Tưởng, nắm được chính quyền, thì Mao khởi đầu chiến lược thôn tính Đông Dương - Nếu Tưởng thắng, thì cũng sẽ làm y như vậy- Tàu nào cũng giống nhau- Sẽ rất là lạ nếu thực tế lịch sử lại không xảy ra như vậy- Mộng Đại Hán nằm sẵn trong đầu bất cứ anh Tàu nào- Do đó, dĩ nhiên là CS Tàu phải điều khiển cho được cuộc chiến Đông Dương theo sách lược đó. Vậy thì chiến tranh quốc cộng ở VN kể cả trận Điên Biên Phủ 1954 (*27), và tất cả các chính sách kinh tế chính trị của CSVN kể cả cuộc Cải cách ruộng đất đẫm máu đều nằm trong âm mưu do Tàu xếp đặt để làm suy kiệt Việt Nam mọi mặt, nhất là về kinh tế (do chiến tranh tàn phá liên miên, và kinh tế kiểu XHCN phá sản), về văn hóa xã hội và tinh thần dân tộc (ý thức về nền độc lập dân tộc bị phá sản để xây dựng Thế giới đại đồng CSCN), đạo đức xã hội bị băng hoại, thế hệ trẻ bị đầu độc, ý chí đấu tranh bị mất định hướng, bị đàn áp hung bạo đến tê liệt và suy kiệt. Người dân sẽ chỉ còn biết an thân thủ phận lo sinh kế hoặc tranh nhau hưởng thụ nếu có điều kiện.

Một khi ý chí đấu tranh suy kiệt, tinh thần dân tộc sẽ bị lụn bại (dân khí tuyệt) sẽ rơi vào cái thế buộc phải lệ thuộc ngoại bang, đưa tới mất nước và bị đồng hoá y như dân Chiêm Thành và Chân Lạp trước đây vậy. Dân ta ở VN sẽ thành ra người Tàu gốc Việt, Tàu hạng nhì hạng ba, giống như Việt kiều sau khi thua chạy ra nước ngoài thôi, chỉ vài ba thế hệ sau là thành Mỹ gốc Việt, Tây gốc Việt, đều thành con lai hết.... Rốt cuộc đó cũng là thể hiện quy luật vận động của lịch sử loài người: Di dân và Đồng hoá.......

Nguy cơ trở thành người Tàu gốc Việt hiện nay là rất lớn, nếu không huy động được toàn lực nhân dân trong nước, cộng thêm yểm trợ của các nước lân bang, thì ít nhất sẽ mất miền Bắc (nếu không để bị mất Tây Nguyên). Một bộ phận dân Việt nếu tiếp tục chạy thoát được sang các nước khác hoặc các nước Âu Mỹ, thì cũng sẽ là di dân, và vài thế hệ nữa thì cũng bị lai giống hoặc đồng hóa, không còn nói được tiếng Việt nữa.

Sự tồn tại của Việt tộc luôn luôn bị đe dọa bởi chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán (*28).Ngày nay còn bị đồng thời đầu độc bởi Chủ Nghĩa Cộng Sản. Hậu quả là sức sống của dân tộc bị mòn mỏi cùng cực- Nếu không lật đổ được CNCS và bọn tay sai thân Tầu, thì cơ may tồn tại là rất ít. Trừ phi Tàu bị Mỹ "triệt buộc", phải phình to, và tự nổ sớm, thì may ra đất nước ta và dân ta lại tồn tại được lâu lâu hơn chút nữa... mong thay !!!

Phạm Dzũng
(Hiệu chỉnh, bổ sung Tháng 10-2012)
—————-
Bài do tác giả gửi, VAOL biên tập và minh họa
—————-

Ghi chú:

(*1) Chủ nghĩa Đại Hán, Chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc: xem định nghĩa trong:http://vi.wikipedia.org/wiki/Chủ_nghĩa_Đại_Hán

“…Bản chất lớn nhất của chính quyền Đại Hán là độc đoán bên trong và bành trướng xâm lược bên ngoài. Trong xâm lược bên ngoài, Trung Quốc lăm le nuốt chửng mọi nước láng giềng, tự nhận mình là trung tâm của thế giới, không giấu giếm ý đồ lâu dài là làm bá chủ thế giới bằng mọi cách….” http://vi.wikipedia.org/wiki/Chủ_nghĩa_bành_trướng_Trung_Quốc
Về Chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán: xem ghi chú 28


(*2) Dân khí: Nói như cụ Phan Chu Trinh, phải chấn hưng dân khí trước nhất: “Chấn dân khí, hưng dân trí, hựu dân sinh… ”- Dân Nhật định cư ở vùng hải đảo nghèo nàn tài nguyên mà vẫn trở thành Đại cường- Dân Do Thái trải qua vài ngàn năm bị mất nước và bị Đức QX tàn sát, nay tụ lại chỉ có chưa đầy 8 triệu người mà cũng là 1 cường quốc khoa học kỹ thuật (nhiều Nobel khoa học nhất thế giới) và quân sự (đánh thắng liên minh 9 nước Ả Rập chỉ trong 6 ngày)- Nước Hàn cũng bị chia đôi, miền Bắc nghèo đói, nhưng miền Nam đã trở thành cường quốc kinh tế cạnh tranh được với Nhật… là do yếu tố nào? Phải chăng là “dân khí” họ cường mãnh hơn dân Việt mình khi họ đoàn kết một lòng trong chiến tranh giữ nước, trong nỗ lực tăng gia sản xuất xây dựng kinh tế, đứng lên chống lại độc tài quân phiệt để xây dựng nền dân chủ pháp trị ?-

Ý thức vững vàng của thành phần ưu tú lãnh đạo một cộng đồng(hoặc Quốc gia) về sức mạnh của sự đoàn kết toàn dân cũng là đặc điểm của dân khí cường mãnh, thí dụ:1/-Ở nước ta,với Hội Nghị Diên Hồng, vua với dân đồng lòng chống quân Mông Cổ. Thời vua Quang Trung đem quân ra Bắc 2 lần để phù Lê diệt Trịnh và sau đó đại phá quân Thanh, quân miền nam không tàn sát dân, cũng không trả thù binh lính miền Bắc- 2/-Nước Mỹ sau cuộc Nội chiến Nam Bắc tàn khốc, phe miền Bắc thắng trận đã đối xử với phe miền Nam thua trận rất cao thượng, hoàn toàn không có sự kỳ thị hoặc trả thù, kẻ thua trận vẫn được kính trọng và vẫn được bình đẳng, coi như anh em, hoàn toàn không giống như ở VN sau năm 1975.

Sức mạnh của dân tộc (dân khí) là ở chỗ: ý thức kỷ luật, ý thức tập thể thể hiện qua ý thức đoàn kết dân tộc và độc lập dân tộc trên bình diện rộng, không chỉ thể hiện ở người lãnh tụ hoặc tập đoàn cầm quyền.

(*3) Chiếm Chiêm Thành: Khởi đầu với vua Lý Thánh Tông (1069), đến năm 1693 với chúa Nguyễn Phúc Chu, xóa sổ dân Chiêm Thành-
Chiếm Miên: Khởi đầu từ 1658, Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần chiếm Biên Hòa.

(*4) Xem: Mongoloid- Genetic research http://en.wikipedia.org/wiki/Mongoloid_race

(*5)

Không có nhận xét nào: