Tiến sĩ Elinor Ostrom, người phụ nữ đầu tiên và duy nhất đoạt giải Nobel Kinh tế, qua đời hôm qua, thọ 78 tuổi.
Bà được giải Nobel Kinh tế năm 2009, sau cả một đời nghiên cứu cách bảo vệ tài nguyên của chung sao cho không bị lạm dụng, không bị dùng quá trớn, bào mòn tới nỗi bị mất luôn.
Bà được giải Nobel Kinh tế năm 2009, sau cả một đời nghiên cứu cách bảo vệ tài nguyên của chung sao cho không bị lạm dụng, không bị dùng quá trớn, bào mòn tới nỗi bị mất luôn.
Giáo sư chính trị học Elinor Ostrom (1933-2012), Nobel Kinh tế 2009. (Hình: Indiana University) |
Hầu hết công trình nghiên cứu của bà đều được thực hiện trong thời gian bà dạy tại đại học Indiana University, cũng không phải trong khoa kinh tế, mà trong khoa chính trị.
Điều này thật ra không có gì lạ. Không lạ, vì ngành kinh tế không còn là một ngành riêng lẻ dành riêng cho những người muốn làm kinh tế hay thương mại nữa, mà ngành kinh tế đã lấn vào hầu hết các ngành khoa học xã hội. Phương pháp luận của kinh tế là một phương pháp luận căn bản hầu như bất kỳ một nhà khoa học xã hội nào cũng phải biết. Và khi một nhà chính trị học, như Tiến sĩ Ostrom, dùng phương pháp của kinh tế để giải quyết vấn đề tài nguyên dùng chung, thì công trình đó trở thành một công trình kinh tế.
Bài toán quen thuộc
Vấn đề Tiến sĩ Ostrom nghiên cứu là một vấn đề khá quen thuộc với người Việt Nam. Tại sao phòng vệ sinh ký túc xá lại rất dơ? Tại sao đường xá Việt Nam xả đầy rác?Tại sao di tích lịch sử cứ bị phá hỏng không ai chăm sóc? Tại sao ngành du lịch làm ăn chụp giựt không màng tới tiếng xấu cho đất nước? V.v. và v.v.
Người Việt Nam mình gọi những vụ này bằng thành ngữ “cha chung không ai khóc.” Hoặc là “nhiều sãi không ai đóng cửa chùa.” Đó là những câu miêu tả tình trạng này, nhưng chưa phải là giải pháp.
Trong kinh tế, tình trạng này mang tên gọi “tragedy of the commons,” tạm dịch là “thảm kịch của tài nguyên dùng chung,” theo tựa của bài nghiên cứu của nhà môi trường học Garrett Hardin, in trong tạp chí Science năm 1968. (Hiện tượng một bài nghiên cứu môi trường, do một tiến sĩ vi sinh học viết ra, lại trở thành một bài kinh điển cho giới kinh tế, một lần nữa cho thấy môn kinh tế không phải là một ốc đảo.)
Thế thì “tragedy of the commons” là gì? Tôi có lần nghe phỏng vấn Tiến sĩ Ostrom trên radio, thì bà tóm tắt công trình nghiên cứu cả đời của bà, là biến “tragedy of the commons”-thảm kịch của tài nguyên dùng chung, thành “problem of the commons” – một bài toán, một vấn đề, có giải pháp, chứ không phải là thảm kịch để ngồi khóc lóc than thở với nhau.
Thí dụ tiêu biểu của “tragedy of the commons” (mỗi vấn đề trong kinh tế thường có một thí dụ tiêu biểu) là một đồng cỏ chăn bò.
Thảm kịch đồng cỏ tàn phế
Hardin miêu tả một cánh đồng cỏ không thuộc chủ nào hết, bên ngoài một ngôi làng. Một nhà nông đem 2-3 con bò ra ăn cỏ, thì không sao, vì cỏ sẽ mọc lại. Cả làng mỗi nhà mang 2-3 con, cũng chưa sao. Trong đó có một nhà mang 10 con, cũng vẫn chưa sao, cỏ vẫn còn mọc lại được.Bò thả trong đồng cỏ chung, ở Anh. (Hình: Sharon Loxton/Wikipedia/Creative Commons) |
Và thế là hết cỏ. Mà hết cỏ thì cũng hết cả chăn bò.
Cái tối ưu của mỗi người, khi cộng lại, sẽ không còn là mức tối ưu của chung. (Người quen thuộc với toán sẽ nhận ra là điểm cân bằng Nash của trò chơi này là điểm không tối ưu.)
Đó là thảm kịch.
Thảm kịch này đã xảy ra thật trong đời sống. Cụ thể nhất là trong ngành đánh cá. Có những nguồn cá bị đánh cạn kiệt, chỉ vì mỗi người đều cố gắng đánh cho được càng nhiều cá càng tốt, không cần biết có quá mức sinh đẻ của cá hay không. Nếu lỡ vùng biển nào bị cạn nguồn cá thì, không sao, ta đi qua vùng biển khác, tiếp tục vắt cho hết!
Vậy phải làm sao? Các nhà kinh tế đưa ra hai giải pháp.
Một giải pháp, có thể xem như là giải pháp của “cánh tả,” là một chính quyền nào đó đứng ra đánh thuế, hoặc quản lý đồng cỏ này, định giới hạn số bò được vào. Có giới hạn, đồng cỏ sẽ không bị gặm tới chết.
Giải pháp thứ nhì, có thể xem như giải pháp “cánh hữu,” là đem chia lô bán đấu giá đồng cỏ đó. Tư nhân mỗi người được một miếng, rồi tự lo mà giới hạn để năm sau mình còn cỏ mà cho bò ăn. (Ron Coase, Nobel Kinh tế 1991, là người cổ động giải pháp này.)
Cả hai giải pháp đều có vấn đề. Giải pháp “tả khuynh” kiểu Pigou có vấn đề là tin tưởng vào một nhà nước anh minh sẽ đưa ra đáp số tối ưu – trong khi nhà nước tự nó cũng có sự ích kỷ của nó. Có cả một ngành kinh tế, gọi là public choice theory, để phân tích sự ích kỷ của nhà nước dẫn đến những giải pháp dưới tối ưu như thế nào. (Tiến sĩ Ostrom cũng đóng góp đáng kể trong public choice theory.)
(Tôi cũng nhận xét thêm là ở mặt này người Việt Nam mình rất tả khuynh. Mỗi khi có vấn đề gì, là báo lề phải sẽ có những bài viết hay thư độc giả “mong sao nhà nước sẽ có giải pháp X, Y, Z,” và các blog lề trái thế nào cũng có người chỉ trích nhà nước là không chịu áp đặt giải pháp X, Y, Z.)
Giải pháp hữu khuynh cũng yếu. Chính Coase cũng nhận ra rằng chia một mảng tài nguyên lớn thành nhiều mảng nhỏ tăng chi phí giao dịch giữa những lô đất đó với nhau hoặc giữa người có đất và người ngoài. Ngoài ra, có khi mảng tài nguyên đó không phân lô được, hoặc phân lô không được công bằng.
Giải pháp thứ ba
Tiến sĩ Ostrom đưa ra thí dụ một đồng cỏ không phân chia được. Có cái làng kia ở miền núi châu Âu, người ta canh tác ở chân núi còn phần đồng cỏ trên cao, không phải của riêng ai, thì người ta thả bò ở đó.Cỏ ở đó, mọc không đều. Cỏ mọc nhiều ít trong mùa xuân, là tùy tuyết mùa đông thế nào. Trên núi đó, tuyết rơi không đều, nên vào mùa xuân cỏ mọc cũng không đều. Có năm thì phía bên này cỏ xanh rậm rạp phía bên kia thưa thớt. Có năm thì ngược lại.
Vì vậy giải pháp của cánh hữu chia lô mỏm núi không thực hiện được. Chia lô ra sẽ dẫn đến tình trạng có bên bò no và dư cỏ, có bên bò thiếu cỏ bị đói.
Cái làng đó chính là nguồn cho giải pháp của Tiến sĩ Ostrom. Cái làng đó có thật, có tên: Làng Törbel, ở Thụy Sĩ.
Làng Törbel, nhìn từ mỏm núi đối diện. (Hình: Wandervogel/Wikipedia/Creative Common) |
Vấn đề của tài nguyên dùng chung có thể giải quyết được qua sự thỏa thuận giữa những người dùng tài nguyên đó với nhau!
Ngoài ngôi làng Törbel ở Thụy Sĩ ra, bà Ostrom còn tìm ra hàng trăm thí dụ khác khắp thế giới, khi người sử dụng tài nguyên, tại địa phương, tự tìm ra giải pháp.
Tức là, trong khi giới kinh tế từng tưởng rằng chỉ có hai giải pháp ở hai cực tả và hữu – hoặc là nhà nước phải nhúng tay vào điều khiển từ xa, hoặc là tài nguyên đó phải xé ra cho tư nhân – thì có một giải pháp thứ ba: Giải quyết tại địa phương. Cái làng Törbel ấy, họ tự giải quyết với nhau, không cần chi tới nhà nước ở Zurich xía vào.
Tự xài tự xử
Tự giải quyết với nhau à? Dễ nhỉ. Dễ thế mà cũng Nobel sao?À. Nếu nghĩ thêm một bước nữa, mới thấy phát hiện này không phải là tầm thường đâu. Vì bình thường, nếu bảo, ai xài người đó tự giải quyết với nhau, thì rất nhiều người trong chúng ta sẽ giẫy nảy lên vì cho đó là vô lý, là vừa đá bóng vừa thổi còi.
Chính điều đó là phát hiện của Ostrom: Những kẻ đá bóng này không thể thổi còi bậy được, vì họ còn phải tiếp tục đá với nhau nữa, hết trận này qua trận khác. Khác với hai đội chuyên nghiệp cần có trọng tài, trẻ em trong xóm khi đá với nhau toàn tự thổi còi đấy thôi!
Phát hiện của Ostrom cũng chứng minh thành ngữ của Việt Nam là sai. “Cha chung không ai khóc” ư? Có ai đã từng đi đám ma của ông nào đông con mà không con nào khóc đâu? Thực tế là càng đông con càng nhiều đứa khóc và càng dễ làm đám ma to. “Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”? Cũng sai nốt. Nhiều sãi thì cứ phân công đóng cửa chùa thôi!
Trong công trình “Governing the Commons” in năm 1990, Tiến sĩ Ostrom trình bày kết quả khảo sát thực địa ở khắp năm châu, và rút ra danh sách 8 điểm cần có để giải pháp địa phương thực hiện được. (Xem thêm tóm tắt ở đây, ở đây, và ở đây.) Nhìn vào danh sách này, người quen thuộc với phương pháp kinh tế sẽ nhận ra nhiều khó khăn được giải quyết, như property rights, externalities, free-rider, one-shot game, transaction cost, …
1. Tài nguyên dùng chung phải được phân vùng rõ rệt, để loại bỏ người ngoài nhào vô mà không tuân thủ luật của nhóm.
2. Luật của nhóm phải cân bằng giữa tài nguyên rút ra và cống hiến bỏ vào, như bỏ tiền, bỏ công…
3. Người bị ép tuân thủ luật của nhóm, phải có tiếng nói trong việc lập ra và thay đổi luật này.
4. Phải có người theo dõi sự tuân thủ để tránh gian lận.
5. Phải có luật phạt vi phạm, và mức phạt phải tăng dần. Và ở đây, Tiến sĩ Ostrom chỉ ra điều cơ bản của vấn đề, là không cần một nhà nước ở xa mà chính những người sử dụng tài nguyên tự bảo đảm sự tuân thủ bằng những mức phạt này.
6. Tranh chấp phải giải quyết được ở mức địa phương, với phí tổn thấp về tiền bạc, nhân sự, thời gian. Điều này giảm thiểu transaction cost.
7. Chính quyền bên ngoài phải tôn trọng quyền tự quyết của địa phương. Cái này tiếng Việt gọi là phép vua thua lệ làng. Không chỉ để tránh những giải pháp dưới tối ưu do “xuân từ trong Huế đưa ra,” mà điều này còn tránh cho những kẻ muốn lách luật của nhóm không thể chạy ra trung ương kiếm ông nào ô kê cho mình làm bậy.
8. “Nested enterprises” – phải có nhiều tầng quy tắc cho từng tầng tài nguyên. Ostrom lấy thí dụ ở Philippines: Kênh đào có nhiều cấp, có kênh chính, kênh nhỏ tách ra từ kênh chính, và trên đó thì có hệ thống chung của tất cả các công trình thủy lợi. Thì luật ở kênh nhỏ, là kênh cuối cùng đổ vào ruộng, phải khác luật ỏ kênh chính – đổ vào các kênh nhỏ. Và cả hai cùng phải khác luật của cả hệ thống dẫn thủy nhập điền.
Và nhìn vào danh sách này, một người không cần quen thuộc với phương pháp kinh tế cũng nhận ra là nó có dáng dấp của cái gì đó rất là thượng tôn pháp luật, rất là bảo vệ quyền tư hữu, rất là tư pháp độc lập, rất là địa phương tự trị, rất là tôn trọng cử tri.
Nói chung là rất là dân chủ.
© Vũ Quý Hạo Nhiên
Theo blog Nhảm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét