Pages

Chủ Nhật, 12 tháng 1, 2014

Góp ý với RFA về bài viết “Hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng”

VRNs (13.01.2014) – Nhungvandevietnam - Các «học giả, chuyên gia nghiên cứu Biển Đông» Việt Nam trong  trong bài phỏng vấn cùng đồng ý với nhau ở điểm «công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý ràng buộc».
Tuy nhiên, lập luận của một số các học giả quốc tế thì không vậy.
Giáo sư  Greg Austin trong tập “China’s Ocean Frontiers – International Law”, hay Thomas Bradford, trong « The Spratly Island Imbroglio : a tangled web of conflict », cùng cho rằng VN đã bị phạm nguyên tắc luật học « Estoppel ».
Theo Thomas Bradford, công hàm Phạm Văn Đồng có nội dung « tái xác nhận sự công nhận của Việt Nam về chủ quyền của Trung Quốc ở các quần đảo », do đó VN bị « Estopped ».

Còn Greg Austin thì cho rằng công hàm của ông Phạm Văn Đồng có hiệu lực thuyết phục nhất trong việc khẳng định HS và TS thuộc TQ. Theo học giả này, Công hàm Phạm Văn Đồng là một văn kiện cấp quốc gia, của chính phủ này gởi đến một chính phủ khác. Quan trọng là vì là nhà nước VNDCCH không chỉ đã không có văn kiện phản đối về tuyên bố chủ quyền của TQ tại các đảo, mà nhà nước này lại còn ra tuyên bố ủng hộ nó.
Học giả này dẫn ý kiến nhiều luật gia để chứng minh rằng luật quốc tế rất rõ ràng về nguyên tắc « Estoppel », trường hợp bị mất tố quyền. Tức là, khi một nước trong quá khứ đã thừa nhận chủ quyền của một nước khác tại một vùng lãnh thổ, nước này trong tương lai sẽ không được thụ lý để tranh dành chủ quyền tại vùng lãnh thổ đó nữa.
Học giả Monique Chemillier-Gendreau, trong tập « La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys » thì phản biện lại ý kiến cho rằng VN bị « Estopped ». Quí độc giả có thể đọc thêm bài viết ở đây.
Lập luận của bà là : « những lời tuyên bố hoặc lập trường nào đó của chính quyền miền Bắc Việt Nam không có hiệu lực gì đối với chủ quyền. Đây không phải là chính quyền có thẩm quyền trên quần đảo này. Người ta không thể chuyển nhượng những gì người ta không kiểm soát được… »
Câu « Người ta không thể bán hay cho cái mà mình không có » thấy viết trong bài báo đã dẫn, hay lập luận « Người ta không thể từ bỏ về cái mà người ta không có chủ quyền » thường thấy nhắc đi nhắc lại ở các bài viết của các học giả VN, đều bắt nguồn từ ý kiến này của bà Monique Chemillier-Gendreau.
Tuy nhiên học giả Monique Chemillier-Gendreau có nhắc một điều quan trọng khác, mà các học giả VN thường không nhắc tới : công hàm Phạm Văn Đồng có thể làm cho VN vướng vào nguyên tắc « acquiescement ».
Lập luận của bà Monique Chemillier-Gendreau cũng tương tự với học giả Greg Austin. Việc nhà nước VNDCCH đã im lặng trước sự khẳng định chủ quyền của TQ tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo nội dung tuyên bố 4-9, hoặc các tuyên bố của VNDCCH liên quan đến vùng nước của TQ tại Hoàng Sa, cũng như những bài viết trên báo Nhân Dân… có thể cấu thành yếu tố « acquiescement », tức sự « đồng thuận ». Tức là nhà nước VNDCCH nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại hai quần đảo hoàng Sa và Trường Sa trong một thời gian dài từ 1958 đến 1975. Bây giờ nhà nước VN không thể nói ngược lại.
Quí độc giả có thể đọc bài ở đây về nguyên tắc « acquiescement ». Nếu VN đưa vấn đề tranh chấp ra trước một trọng tài quốc tế, VN có thể bị xử thua kiện.
 14011302
TS Trần Trường Thủy trong bài phỏng vấn cho rằng công hàm Phạm Văn Đồng chỉ nhằm công nhận lãnh hải 12 hải lý chứ không nói đến vấn đề chủ quyền.
Trong bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 của Trung Quốc có viết rõ rệt hiệu lực 12 hải lý không chỉ ở đất liền các hải đảo thuộc TQ mà còn ở « Tây Sa » và « Nam Sa » (tức HS và TS của VN). Các học giả quốc tế, kể cả học giả Monique Chemillier-Gendreau (là người bênh vực lập trường và thiết lập hồ sơ pháp lý cho VN), đều cho rằng sự im lặng của nhà nước VNDCCH về điều này đã khiến VN bị phạm nguyên tắc « Acquiescement ». Mặt khác, những tuyên bố, những bài báo trên Nhân Dân, hoặc sự im lặng của VNDCCH khi hải quân TQ đánh chiếm Hoàng Sa, đều củng cố yếu tố  « acquiescement » (nếu không nói là estoppel).
Vấn đề là, VN hôm nay có thể nói ngược lại, là chỉ công nhận lãnh hải 12 hải lý của TQ ở mọi vùng lãnh thổ của TQ, mà không tôn trọng ở HS và TS, với lý do HS và TS thuộc VN hay không ?.
Theo các nguyên tắc luật học như « Estoppel » hay « Acquiescement », việc này là không !
Nhưng nếu xem lại trả lời phỏng vấn trước đây của chính tác giả của công hàm, ông Phạm Văn Đồng, hay bộ tưởng bộ Ngoại giao VN thời đó là ông Nguyễn Mạnh Cầm, cả hai đều nhìn nhận nội dung công hàm nhằm ủng hộ chủ quyền của TQ tại HS và TS. Lý do được giải thích là vì thời chiến nên phải làm vậy.
Lập luận của TS Trần Trường Thủy trong bài phỏng vấn e rằng không phù hợp với thực tế.
TS Nguyễn Nhã thì cho rằng « công hàm Phạm Văn Đồng 1958 không có giá trị pháp lý mà chỉ mang ý nghĩa hậu thuẫn chính trị trong giai đoạn hai phe đối đầu ở Việt Nam. »
Có giá trị pháp lý hay không ta cần phải tìm hiểu về tập quán quốc tế và luật quốc tế có quan niệm thế nào về các tuyên bố, hay « công hàm » có nội dung tương tự như công hàm Phạm Văn Đồng, hay Tuyên bố về lãnh hải ngày 4 tháng 9 của TQ.
Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Trung Quốc về lãnh hải quốc gia, là Tuyên bố đơn phương có hình thức « décision - quyết định » (hơn là hình thức « notification »). Tương tự như tuyên bố « notification » của Trung Quốc về Vùng nhận diện phòng không trong biển Hoa Đông (ADIZ) vừa rồi.

Không có nhận xét nào: