Pages

Thứ Hai, 8 tháng 7, 2013

GIẢI PHÁP NÀO CHO VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG TRONG HOÀN CẢNH MỚI?

Icon_Biển Đông_Đường Lưỡi Bò1
Đinh Hoàng Thắng & Hoàng Việt*, theo Basamnews 
Luật quốc tế UNCLOS và bộ Quy tắc COC không được thể hiện trong Tuyên bố Việt-Trung. Tin về biển Đông ở Cấp cao Trung-Mỹ cũng không nhất quán. Bối cảnh này khiến việc tìm kiếm giải pháp cho các tranh chấp biển đảo trong khu vực tiếp tục là vấn đề cấp bách. Quyền lợi của ngư dân Việt tại Hoàng Sa, Trường Sa không thể không được đảm bảo.

 Xin được kiến nghị một dạng thức “mô hình giải pháp” (solution model, paradigm), bao gồm năm biện pháp (measures), gọi là P-DOWN. Đây là một tập hợp năm chữ cái tiếng Anh, mỗi chữ cái tiêu biểu cho một biện pháp: P là Partnership (Đối tác), D là Democracy (Dân chủ), O là CoC for Ocean (bộ Quy tắc ứng xử trên biển Đông), W là Wisdom (Minh triết)  N là Network (Kết nối). Mô hình năm biện pháp này là cách tiếp cận theo tư duy hệ thống đối với các tranh chấp phức tạp ở biển Đông trong bối cảnh Đông Nam Á hậu Chiến tranh Lạnh. Vấn đề trở càng trở nên cấp bách sau cuộc gặp cấp cao Tập-Obama và chuyến thăm cấp nhà nước Trung Quốc của Chủ tịch Trương Tấn Sang. Bởi vì, nhiều chỉ dấu cho thấy, cấp cao Trung-Mỹ và cấp cao Việt-Trung dường như làm tăng thêm tính bất định cho cục diện trên biển Đông.
 Tình hình hiện nay, theo nhận định của TS. Ian Storey từ Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (Singapore), tiếp tục diễn biến theo chiều hướng tiêu cực. Các bên liên quan vẫn giữ lập trường cũ, đặc biệt là Trung Quốc, vẫn nhất quyết đeo bám yêu sách về chủ quyền lãnh thổ và và đòi hơn 80% diện tích biển Đông. Tại hội đàm cấp cao Việt-Trung mới đây nhất, mặc dù hai bên cam kết thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện nhưng cũng chỉ có Chủ tịch Trương Tấn Sang nêu đề nghị cần tăng cường phối hợp, xử lý thỏa đáng, bảo đảm lợi ích và quyền lợi của ngư dân Việt Nam. Tiến trình CoC và việc tuân thủ Công ước LHQ về Luật Biển (UNLOS-1982) không được khẳng định trong Tuyên bố chung và các văn kiện chính thức. Trong tiếp xúc cấp cao Trung-Mỹ, ông Tập Cận Bình tiếp tục khẳng định nhất quyết bảo vệ cái gọi là “chủ quyền quốc gia của Trung Quốc” trên Hoa Đông và biển Đông.
 Môi trường tiếp tục phức tạp
 Có lẽ ít ai hoài nghi về tầm quan trọng của bang giao Trung-Mỹ đối với các mối quan hệ quốc tế thế kỷ XXI. Tuy nhiên, cục diện thế giới đa cực ngày nay khác xa với môi trường quốc tế của những năm 1970, thời điểm “tam quốc” Mỹ-Xô-Trung tranh hùng. Cho dù ông Tập Cận Bình, ngay trong ngày đầu của cuộc gặp đã cố ý so sánh cấp cao Cali với chuyến thăm của ông Nixon sang Bắc Kinh năm nào, song ít ai tin rằng những ngày qua, ông Tập và ông Obama đã có các thỏa thuận có thể khuynh đảo thế giới như kỷ nguyên “hai phe bốn mâu thuẫn” ấy! Hẳn nhiên thời nào thì bang giao Trung-Mỹ, Việt-Trung cũng đều có không gian cho thỏa hiệp và căng thẳng, hợp tác và cạnh tranh. Các mối bang giao này vốn đã phức tạp, sau cấp cao Cali, cấp cao Bắc Kinh không ai nghĩ là chúng sẽ đơn giản hơn. Dư luận trong/ngoài khu vực quan tâm đến môi trường mới ở biển Đông là vì thế.
 Theo TS. Bonnie Glaser, nữ cố vấn cao cấp của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) Hoa Kỳ, quan trọng nhất ở đây là bản chất của mối quan hệ: “Cả Tổng thống Obama lẫn Chủ tịch Tập Cận Bình đều nhận thức rằng, Mỹ và Trung Quốc cũng như toàn thế giới sẽ phải gánh chịu hậu quả nặng nề nếu hai nước sa vào vết xe đổ của lịch sử, khi một cường quốc mới nổi thách thức một cường quốc đang đứng đầu thế giới và kết thúc bằng xung đột quân sự. Tại cuộc gặp gỡ Cali, hai nhà lãnh đạo đã bàn thảo về mô thức quan hệ mà hai bên mong muốn, như ông Tập Cận Bình tuyên bố với báo giới là một mối quan hệ dựa trên nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, đôi bên cùng có lợi và mở rộng sự hợp tác”.
 Về khả năng thỏa thuận ngầm, Phó Giám đốc Viện Viễn Đông Sergei Louzyanin phân tích, ông Obama sẵn sàng có nhượng bộ mang tính chiến thuật, bởi tới nay Trung Quốc vẫn là chủ nợ lớn nhất của Mỹ, là thị trường quan trọng đối với các tập đoàn Hoa Kỳ. Từ khi mở ra giao thương, lúc nào cán cân mậu dịch của Mỹ cũng bị thâm hụt và số thâm hụt ngày càng tăng. Năm 2011, hàng “Made in China” vào Mỹ trên 399 tỷ USD, trong khi Mỹ chỉ bán cho Trung Quốc được 104 tỷ, thâm thủng 295 tỷ. Năm 2012 Mỹ nhập của Trung Quốc trên 425 tỷ và bán cho Trung Quốc chỉ có 110 tỷ, thâm thủng 315 tỷ. Tuy nhiên, sức mạnh thật sự lại không nằm trong tay nước có dự trữ ngoại hối lớn mà lại ở trong tay nước có thể dễ dàng đi vay bằng đồng nội tệ của chính họ. Chưa nói, ràng buộc đồng Nhân dân tệ vào đồng USD đang đặt Trung Quốc trước không ít rủi ro!
 Mỹ-Trung còn dè chừng nhau bởi nhiều chuyện khác, trong đó đáng quan tâm nhất là chiến lược “Á tâm” và quá trình “tái cân bằng” các lực lượng vũ trang của Mỹ sang Thái Bình Dương. Ngoài ra, gián điệp mạng, khả năng chạy đua vũ trang trên không gian của Trung Quốc… đều là những vấn đề “nóng” trong nghị trình. Theo ông Thẩm Định Lập, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Mỹ của Đại học Phục Đán ở Thượng Hải, cách xử lý của Tổng thống Obama đối với Bắc Kinh mang tính đối đầu nhiều hơn so với người tiền nhiệm George W Bush: hai lần Obama quyết định bán vũ khí cho Đài Loan và hai lần gặp gỡ Đức Đạt Lai Lạt Ma (Bush chỉ có một lần). Một số phân tích vẫn cho rằng, sau cấp cao Cali để “bắt mạch và nắn gân nhau” dường như hai bên vẫn chưa định hình được khuôn khổ của cái gọi là “mô thức mới” trong quan hệ. Hai bên vẫn như những đối thủ trong thế giằng co nhau trên sới vật.
 Kết thúc cấp cao, món quà ông Obama tặng ông Tập là một chiếc ghế băng. Mặt trước ghế được khắc ngày tháng hai vị đàm đạo kèm theo dòng chữ Hán, viết rằng chiếc ghế băng được làm từ gỗ đỏ California. Trong lúc đi dạo ngoài trời tại khu nghỉ mát đầy nắng gió ở California, ông Tập đã cùng ông Obama ngồi lại một lúc trên chính chiếc ghế ấy. Lãnh đạo hai cường quốc thế giới đã dành tám tiếng đồng hồ trong hai ngày để “kết giao” và thảo luận về một số lĩnh vực mang tính biểu trưng cao, bao gồm vấn đề an ninh mạng (quan hệ song phương), phi hạt nhận hóa bán đảo Triều Tiên (vấn đề an ninh khu vực) và biến đổi khí hậu (mối quan tâm toàn cầu). Cho đến nay, các nguồn tin về vấn đề biển Đông tại Cấp cao Cali không nhất quán.
 Dù sao, cuộc gặp Cali vẫn đặt các nước châu Á trước một một môi trường lành ít dữ nhiều do sự hung hăng của Trung Quốc và “sự ỡm ờ chiến lược” (strategic ambiguity) của Hoa Kỳ. Cả hai người đàn ông quyền lực nhất hành tinh muốn qua “so găng” để khẳng định dấu ấn cá nhân trong hoạch định chính sách, xây dựng quan hệ siêu cường kiểu mới, thực hiện “giấc mơ Mỹ” lẫn “giấc mộng Trung Hoa”. Còn nhiều dịp có thể hiểu thêm về tầm vóc lẫn vị thế của hai nhân vật “kỳ phùng địch thủ” này trong lịch sử đương đại, vì họ còn gặp nhau trong tương lai gần. Điều chắc chắn, biển Đông tiếp tục là võ đài để cả hai thi thố sức mạnh lẫn kế sách, đồng thời là địa danh nguy hiểm vì khả năng đụng độ cao. Hai nỗ lực then chốt nhằm đi tới giải quyết tranh chấp mà Việt Nam và thế giới luôn nhấn mạnh trong những năm gần đây và đón đợi nhiều từ cấp cao Bắc Kinh là các cam kết đối với CoC và Công ước Liên Hiêp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) bị gạt khỏi các văn kiện chính thức.
 Tiếp cận theo tư duy hệ thống
 Trong môi trường đầy thách thức về địa-chính trị như vậy, lãnh đạo Việt Nam sớm tiên liệu được các xu hướng đe dọa đến an ninh và phát triển của đất nước. Ngoài việc ưu tiên cao và liên tục bồi đắp “sức mạnh cứng”, từ nhiều năm trước, lãnh đạo Việt Nam đã khẳng định quyết tâm xây dựng “sức mạnh mềm”. Một trong những biểu hiện của quyết tâm này là sớm thiết kế hệ thống “đối tác chiến lược” với các nước thường trực HĐBA (P5) như một sự đột phá, một sự “trở về nguồn” của tư duy đối ngoại. Trong lịch sử, khi tham gia phe đồng minh chống phát xít, Đảng CSĐD cũng từng xác định: “Ta có mạnh thì họ mới chịu ‘đếm xỉa đến’. Ta yếu thì ta chỉ là một khí cụ trong tay kẻ khác, dầu kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta vậy”**. Vấn đề đối tác (P) không chỉ là khởi nguồn của quá trình “làm cho ta mạnh”, mà còn gắn liền với việc xây dựng hệ thống của Việt Nam về cân bằng và đối trọng. Không ngừng làm sâu sắc thêm bang giao với Nhật Bản và Nga, Ấn Độ và Úc, Hàn Quốc và Eu phản ánh chính những nỗ lực này. Con đường triển khai chủ trương không phải lúc nào cũng suôn sẻ, nhưng một khi đã nhất tâm trở lại với các giá trị “dân tộc và dân chủ”** thì không gì có thể cản trở được lộ trình đi tới các đối tác chiến lược ấy.
 Liên quan đến vấn đề dân chủ (D) và độc lập dân tộc, ông Nguyễn Phú Trọng đã từng phát biểu ở Hội nghị TW 6 (ngày 15/10/2012): Bộ Chính trị, Ban Bí thư là một tập thể lãnh đạo kiên quyết bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Vậy là, chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc chiếm ưu tiên trong chiến lược lãnh đạo. Các giá trị thiêng liêng ấy gắn bó máu thịt với con dân đất Việt từ khắp mọi góc bể chân trời. Vì thế, “lòng tin chiến lược” từng tuyên bố tại diễn đàn Shangri-La cần tiếp tục được xây dựng với chính người dân trong và ngoài giải đất hình chữ S thì mới thực thi được bài học dân chủ trong hoàn cảnh mới. Dân chủ sẽ chọn được nhân tài cho đất nước, tạo ra đồng thuận xã hội. Dân chủ sẽ phát huy thế trận lòng dân được tôi luyện qua lịch sử dựng nước và giữ nước. Được như vậy, Việt Nam mới có thể thành một quốc gia mạnh, vượt lên được chính mình để viết tiếp câu chuyện cổ tích hiện đại tại vùng đất Davos này của châu Á.
 Dân chủ, đồng thuận xã hội là điểm tựa bên trong. Hệ thống đối tác chiến lược là điểm tựa bên ngoài. Đây là hai nền tảng vững chắc cho công cuộc vận động ngoại giao, trong đó có việc phấn đấu cùng ASEAN đẩy nhanh tiến trình CoC, bộ Quy tắc ứng xử trên biển Đông (O). Muốn chủ động đối phó với tình trạng không rõ ràng trong quan hệ Trung-Mỹ nói chung và trên biển Đông nói riêng, phải mạnh trong các kết nối quốc nội và quốc tế. Phải coi trọng vai trò ASEAN như một nhân tố trung tâm của các tiến trình. Hẳn nhiên, Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ không vì biển Ðông mà gây chiến. Nhưng biển Đông cũng không nhờ thế mà được yên ổn. Kế sách của Trung Quốc là không trực tiếp đối đầu với Mỹ, nhưng sẽ tìm mọi cách để Mỹ không thể can thiệp vào quyền lợi ích kỷ của Bắc Kinh trên biển Đông. CoC tuy không thay đổi được chính sách của Trung Quốc, nhưng sẽ góp phần thay đổi “luật chơi” trên biển. Chủ nghĩa đa phương, so sánh lực lượng và lợi ích địa-chính trị của các bên đang và sẽ tiếp tục là những nhân tố quyết định cuộc chơi.
 Song song với tiến trình P – D – O, chúng ta có thể mạnh mẽ thúc đẩy các dự án W “Minh triết làm chủ biển Đông”!  Chương trình này vốn xuất phát từ một dự báo thiên tài của tiền nhân cách đây 500 năm: “Vạn dặm biển Đông dang tay giữ / Muôn năm cõi Việt vững thanh bình” (Nguyễn Bỉnh Khiêm). Minh triết làm chủ biển Đông là một quan niệm mới/một tư duy mới về làm chủ dựa trên tâm thức văn minh của thời đại, biết bảo vệ chủ quyền của mình và tôn trọng chủ quyền của các quốc gia khác trên cơ sở hòa bình, hợp tác thân thiện, biết chia sẻ trách nhiệm và lợi ích (Việt Nam nên sớm kết thúc đàm phán với ASEAN về các vấn đề liên quan đến chủ quyền). Từ nay cần nhân rộng các dự án “Minh triết làm chủ biển Đông” ra khắp cả nước. Đây là sáng kiến của Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Minh triết. Trung tâm đang “nối vòng tay lớn” liên kết các đơn vị nghiên cứu về bảo vệ chủ quyền biển đảo, về các vấn đề kinh tế, văn hóa và khoa học biển đảo thành một mạng lưới rộng lớn nhằm tìm kiếm giải pháp từng phần và chung cuộc cho vấn đề biển Đông hiện nay.
 Kết nối (N) sự chủ động của Việt Nam với các sáng kiến lớn trong khu vực vốn là một ý tưởng vượt trội xuất hiện cách đây khá lâu từ thời ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm. Phấn đấu sao cho an ninh và phát triển của Việt Nam trở thành một bộ phận cơ hữu của an ninh và phát triển khu vực. Chủ trương hội nhập toàn diện từ Đại hội XI cho phép chúng ta cùng lúc có thể tham gia vào nhiều cấu trúc mở về chính trị, kinh tế và chiến lược như EAS, TTP, hay RCEP***. Việt Nam có thể cập nhật lời kêu gọi của Indonesia về một hiệp ước kiềm chế xung đột ở châu Á, “Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương mở rộng”. Cùng với các thành viên khác trong cộng đồng, Việt Nam nên chủ động hơn nữa để thích nghi với“Trật tự Á-Thái” (Pax Asia-Pacifica). Hãy nêu cao bài học của Singapore hay Israel để thấy vai trò của các nước vừa và nhỏ trong hệ thống quốc tế hiện đại. Sự chuyển tiếp của các xã hội khép kín như Myanmar và gần đây nhất là Iran cho ta những trải nghiệm quý báu về tính đàn hồi và năng động của các quốc gia có thân phận phần nào giống Việt Nam.
 Hẳn nhiên là các thành tố trong “mô hình P-DOWN” có những tương tác đặc biệt, như là một sự “tùy duyên” hay “tương hỗ”. Không đổi mới về chính trị, không thành tựu về dân chủ hóa trong sinh hoạt nội bộ thì khó có thể xây dựng và thúc đẩy các quan hệ đối tác chiến lược một cách thực chất. Chính hệ thống đối tác chiến lược ấy sẽ nâng chất lượng đa dạng hóa, đa phương hóa của Việt Nam lên một tầm cao mới so với thời kỳ đầu mở cửa. Chất lượng mới này, đến lượt nó sẽ thay đổi đời sống kinh tế-xã hội trong nước theo hướng ngày càng tích cực. Trong toàn bộ mô hình, thành tố này là tiền đề cho thành tố kia và ngược lại. Dân chủ hóa đất nước là một lợi khí và lợi thế mà đối thủ của Việt Nam hết sức lo ngại, thậm chí đã nhiều lần rắp tâm phá hoại. Ngược lại, đó là điều người dân trong nước cũng như bao bạn bè lẫn đối tác của Việt Nam vẫn hằng đón đợi. Chính sách đối ngoại, vì vậy, không còn là sự kéo dài của chính sách đối nội, mà cả hai đều nằm trong một chiến lược tích hợp vì an ninh và phát triển bền vững của đất nước. Dù môi trường biển Đông có phức tạp đến mấy, nếu chủ động ngay từ bây giờ, P-DOWN sẽ là một trong những chìa khóa an toàn!
 *
 Tính hợp trội (Emergence) của hệ thống toàn cầu chính là sự nổi lên của các cấu trúc và sự cố kết trong quá trình tự tổ chức của hệ thống. P-DOWN là mô thức tổng quát, nếu được định hình và ứng dụng có thể sẽ phù hợp với chủ nghĩa khu vực mở ở châu Á-TBD. Các lợi thế do tính hợp trội này mang lại có thể là: i) Hệ thống các đối tác chiến lược sẽ trở thành sức mạnh chế ngự mọi tham vọng quá khích, hiếu chiến; sẽ là quyền lực bao quát cái toàn thể, không hội đủ trong từng đơn vị quốc gia hợp thành), ii) Dân chủ hóa sẽ đoàn kết bên trong và tạo ra sự cố kết giữa bên trong với bên ngoài, bảo đảm độ bền vững của tiến trình, iii) Luật quốc tế là cơ sở tạo thành bộ Quy tắc ứng xử CoC, sau này có thể hội nhập với các cấu trúc khác đang định hình trong khu vực, như EAS, TPP, RCEP, iv) Tư duy minh triết sẽ hội tụ, liên kết và mở rộng mạng lưới như một quá trình tiến hóa, chứ không đột biến cách mạng (gây sốc/đổ vỡ) và v) Kết nối trong nước và trên toàn cầu mang lại tính đại diện cao nên dễ được cộng đồng quốc tế và khu vực chấp thuận.
 Năm biện pháp từng phần để đi tới mô hình hợp nhất này là một tiến trình đi tới giải pháp tổng thể. Hẳn nhiên, tiến trình này sẽ còn gặp nhiều trở lực, thậm chí chống đối và cả sự phá hoại ngầm và công khai từ nhiều phía. Để P-DOWN thành công, phải vô hiệu hóa được các thế lực chống phá ấy, phải vượt qua trở lực do các “ma-sát xấu” của nền ngoại giao ý thức hệ rơi rớt lại. Rất có thể, đây sẽ là đề tài tiếp theo của bài viết mới, một khi các điều kiện cho phép hội đủ, chúng tôi sẽ phục vụ bạn đọc gần xa. Thiện tâm của người viết không hướng đến mô hình mang tính học thuật. Đây là yêu cầu cấp bách của tình thế. Nếu mô hình này được thực thi bài bản, hy vọng sẽ thêm một viên đá góp phần bảo vệ và xây dựng Hoàng Sa, Trường Sa. Bạn có thể quên nhiều điều trong bài viết này. Mọi lý thuyết đều màu xám! Song bạn đừng quên một loại quả lành trên đất Việt, đó là quả “bí đao”, phát âm hao hao với P-DOWN. Cái “bí”, cái “khó” chắc chắn sẽ làm “ló” cái khôn sáng, cái minh triết để bảo vệ và gìn giữ biển Đông cho đời này và muôn đời sau!
 _________________________________
 * TS. Đinh Hoàng Thắng, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Vương quốc Hà Lan, Trưởng Nhóm Tư vấn Lãnh đạo Bộ Ngoại giao, hiện đang cộng tác với Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Minh triết. Ths. Hoàng Việt, Giảng viên Đại học Luật, Tp. Hồ Chí Minh.
 ** Trích từ Văn kiện đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ II (tháng 2/1951), trong đó còn ghi rõ: “Chính sách ngoại giao của ta là chính sách ngoại giao có tính dân tộc và dân chủ. Nguyên tắc cơ bản của chính sách đó là: bảo vệ toàn vẹn độc lập, dân chủ, chủ quyền lãnh thổ và thống nhất quốc gia”.
 *** EAS: Hội nghị Cấp cao Đông Á, gồm 18 thành viên, trong đó 16 quốc gia Đông Á  + Hoa Kỳ và Nga tham gia sau này, lấy ASEAN làm trung tâm. TPP: Hiệp định Đối tác Kinh tế-Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (gọi tắt là Hiệp định xuyên TBD) là thỏa thuận thương mại tự do với mục đích hội nhập các nền kinh tế thuộc khu vực châu Á-Thái Bình Dương lại với nhau; Các vòng đàm phán do Hoa Kỳ chủ trì, hiện có 11 nước tham gia, trong đó có Việt Nam. RCEP: Hiệp định Đối tác Toàn diện Khu vực: gồm 16 thành viên (ASEAN+6 đối tác: 10 nước ASEAN + Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Australia và New Zealand, chính thức khởi động đàm phán ngày 20/11/2012, Việt Nam là một trong 16 thành viên của Hiệp hội. 

Không có nhận xét nào: