I. Những lãnh tụ của “Bên thắng cuộc”
Đọc xong Bên Thắng Cuộc (Huy Đức, OsinBook 2012), ai lại không khỏi ngậm ngùi trước những mất mát to lớn của dân tộc mình, những đau khổ thê lương của người dân Việt trong gần 200 năm, kể từ ngày Pháp thôn tính cả nước Việt làm thuộc địa cho tới nay, gần 40 năm sau khi CS miền Bắc toàn thắng và chiếm trọn miền Nam. Ai là người biết suy tư lại không lo sợ cho viễn ảnh đất nước ngày càng tiếp tục tụt hậu, tức tối cho những sai lầm to lớn không tha thứ được của nhà cầm quyền CSVN từ sau khi thống nhất cả nước 1975 cho tới nay.
Tuy nhiên, nếu người viết lịch sử mà không phản ảnh hoàn toàn được sự thực lịch sử hoặc làm rõ bộ mặt thực của những nhân vật lịch sử, hoặc vì bị một ràng buộc nào đó để tránh né, biện minh cho một bên, thì hậu thế sẽ không học được gì ở giai đoạn lịch sử bi thương này, vì suy nghĩ ở người đọc bình thường sẽ bị định hướng như sau:
- Trên hết, vì những lãnh tụ, lãnh đạo này đã có công lớn làm cách mạng giải phóng dân tộc, đã có hy sinh chiến đấu, có cố gắng phục vụ, có quyết tâm sửa sai, khắc phục v.v… cho nên nếu họ có làm sai thì chỉ là vì thiếu kiểm soát, vì vấp phạm lỗi lầm… thì vẫn có thể tha thứ được…
- Lỗi lầm của những lãnh tụ, lãnh đạo này chẳng qua là do trình độ văn hóa thấp kém, vì thiếu khả năng, vì dốt, hoặc chỉ là do bệnh “cuồng tín giáo điều”, hoặc “ấu trĩ tả khuynh”, hoặc “chủ quan duy ý chí”, cho nên cần có thời gian để “từng bước khắc phục”. Hơn nữa, vì họ “xuất thân nhân dân lao động”, cho nên và phải được cho cơ hội để “vừa học vừa làm”.
Đó là những hình ảnh cuối cùng mà sau khi đọc Bên Thắng Cuộc, người đọc có thể nhìn thấy ở các lãnh tụ CS nổi bật như Hồ Chí Minh (chống thực dân, nhưng lại phục tùng Stalin, Mao Trạch Đông), Lê Duẩn (tham vọng quyền lực và độc đoán, vừa chủ trương thanh trừng nội bộ để chống xét lại, vừa chủ trương theo Nga chống Tàu), Võ Văn Kiệt (chủ trương “Đổi mới” chỉ đủ để chữa cháy cho chế độ), và Nguyễn văn Linh (Đổi mới nửa mùa, Cuồng tín giáo điều, sẵn sàng phục tùng CS đàn anh dù là Nga hay Tàu). Cảm tưởng chung của người đọc, nếu không hoặc chưa đọc được những nguồn tài liệu khả tín khác, sẽ chỉ tới mức độ tiếc rẻ, và dễ dàng tin vào lời bào chữa rằng, chính sách thì đúng nhưng thực hiện chưa tốt, hoặc trên chủ trương đúng nhưng dưới thi hành sai, hoặc quá lắm thì chẳng qua chỉ vì các lãnh tụ CS dốt và cuồng tín, giáo điều, duy ý chí tả khuynh… cho nên kết luận chung sẽ chỉ là: thật đáng tiếc cho vận nước nổi trôi, đáng thương cho dân tộc mình, đáng trách nhưng cũng đáng tội nghiệp cho các nhà lãnh tụ, thế thôi.
Có thể là tác giả cũng chỉ nghĩ tới mức độ đó, cho nên điều mà tác giả viết gần như lời một luật sư bào chữa cho tội nhân. Ngay cả khi kết nối lịch sử, nhắc lại cuộc Cải Cách Ruộng Đất 1956, tác giả cũng không thấy được hoặc cố gắng để có thể làm cho người đọc thấy được bản chất tay sai cho Tàu và Nga của Hồ Chí Minh khi ngay từ những ngày đầu nắm quyền lực đã cam tâm chấp nhận sự thao túng của quan thầy CS Tàu, để mặc cho bàn tay thâm độc của Tàu tung đòn đánh quyết liệt vào nguyên khí dân Việt, thực hiện mưu sâu diệt nhân tài cố tình lồng vào các chiến dịch đẫm máu đó: đoàn cố vấn Tàu do Hồ Chí Minh mời sang, núp dưới vai trò đại diện cho Mao Trạch Đông chỉ đạo việc thực hiện chiến dịch CCRĐ và Đấu tranh giai cấp, Rèn cán chỉnh quân, đã áp lực Hồ Chí Minh phải để chúng trực tiếp điều khiển những đội đặc nhiệm giết và thanh trừng hơn nửa triệu người, cố tình lồng vào trong danh sách đó để tiêu diệt hơn 1/2 số cán bộ đảng viên Việt Minh thuộc thành phần có học, có tinh thần dân tộc, có công trạng lớn trong chống Pháp (những lãnh đạo, lãnh tụ trong tương lai) (*1). Cố vấn Tàu cố tình chỉ để cho HCM giữ lại đám đàn em thân Tàu, phục Tàu, sợ Tàu, những kẻ cuồng tín giáo điều, những cán bộ vô học, và đám quần chúng hoang mang sợ hãi, sẵn sàng chịu nhồi sọ mà thôi.
Trong cuộc chiến Tàu Việt từ ngàn xưa tới nay, sách lược muôn đời của Tàu vẫn là tàn hại nguyên khí của dân Việt, và chúng ra tay rất sớm, “tiên hạ thủ vi cường”, trong thời gian kể từ 1956, Tàu đã thực hiện mục tiêu đó một cách rất quyết liệt và hiệu quả: ở miền Bắc, chỉ trong thời gian vài năm, đã tiêu diệt hoặc vô hiệu hóa hầu như hoàn toàn những người có tinh thần dân tộc, những người có khả năng tư duy độc lập, những người có tiềm năng lãnh đạo, tóm lại là những nhân tài quý hiếm của đất nước, chỉ để lại những kẻ phục Tàu, sợ Tàu, những thành phần chịu cúi đầu khuất phục hoặc tay sai, những kẻ cuồng tín dốt nát nhưng có tham vọng quyền lực độc tài và bọn cơ hội, những loại người này sẵn sàng đổ máu dân lành vô tội để thực hiện tham vọng của họ dưới chiêu bài “xây dựng chuyên chính vô sản”. Những kẻ này chính là bọn giặc nội xâm, là những kẻ đã bị nhiễm nọc độc CSCN. Theo bản năng và quán tính, họ sẵn sàng tiêu diệt hết những kẻ khác có tiềm năng cạnh tranh vai trò lãnh tụ của mình, bất kể là đó là người yêu nước, nhân tài của đất nước, hay đồng chí đồng đội của mình.
Như một quy luật, một guồng máy đã được định hình thế nào, thì sẽ chỉ chế tạo ra được 1 thứ sản phẩm nhất định. Thực tế lịch sử cho thấy hầu như toàn thể thanh thiếu niên miền bắc VN đã bị tê liệt vì tẩy não và bạo lực chuyên chính, cho nên đã nhắm mắt tung hô bọn lãnh tụ cuồng tín, lao vào cuộc chiến huynh đệ tương tàn xâm lăng miền nam. Đồng thời lịch sử cho thấy đám người theo CSCN thay nhau cầm quyền kể từ sau 1956 cho tới nay chỉ giỏi trong chiến tranh, giết chóc và phá hoại, nhưng lại rất bất lực, vụng về và hoàn toàn không có khả năng trong xây dựng đất nước. Trong thực tế, sau khi phải từ bỏ lối kinh tế kiểu XHCN để tránh chết đói, đứng trước những mối lợi to lớn khi kinh tế khá lên, họ bị suy thoái nhanh chóng trong đạo đức, mau chóng phân hóa thành những nhóm lợi ích cạnh tranh nhau về quyền và lợi, sẵn sàng đàn áp nhân dân và lệ thuộc ngoại bang để bảo vệ quyền lợi đó, do đó không lạ gì đất nước ta sau 40 năm thống nhất và hòa bình, lại ngày càng tụt hậu thê thảm mọi mặt so với các nước láng giềng trong khu vực như ngày nay. (*2)
Theo dõi những diễn biến lịch sử tiếp theo năm 1956, không khó để nhận thấy đòn đánh quyết liệt đầu tiên của Tàu qua các chiến dịch khủng bố nhà nước năm 1956 là rất hiệu quả, triệt để, và có tính quyết định trong sách lược tiêu diệt nguyên khí đất nước Việt vừa mới bắt đầu phục hồi sau khi thắng thực dân Pháp. Đòn đánh này cũng tạo tiền đề, tạo điều kiện cho các vụ khủng bố nhà nước khác tiếp diễn liên tục như: Vụ án xét lại chống đảng (1967-1973 nhằm củng cố thế lực độc tôn của Lê Duẩn), trận Mậu Thân 1968 (nhằm tiêu diệt lực lượng quân sự của những người theo Mặt trận Giải phóng MN vì tinh thần dân tộc chủ nghĩa, có tiềm năng chia sẻ quyền lực chính trị với miền Bắc sau khi thống nhất đất nước), chính sách bội ước và thanh trừng phe Mặt trận GPMN, chính sách cào bằng kinh tế miền Nam, phá hủy văn hóa phẩm miền Nam, chính sách cầm tù, đày đọa quân nhân viên chức VNCH sau 1975, và cái quái thai “Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN” còn đang được vá víu thực hiện cho tới ngày nay, đều là những hệ luận không thể tránh khi đất nước được điều khiển bởi những lãnh tụ cuồng tín, giáo điều, độc tài độc đoán mà lại thiếu học vấn, thiếu kiến thức và kinh nghiệm xây dựng kinh tế như những tập đoàn Lê Duẩn, Đỗ Mười, Nguyễn Văn Linh v.v…
Hệ lụy của chuỗi sai lầm do “chủ quan, duy ý chí, và ấu trĩ tả khuynh…” này rất bi đát ngoài sức tưởng tượng cho dân Việt, nó trở thành chuỗi khủng bố, phá hoại liên tục vào nguyên khí và tiềm lực kinh tế của đất nước VN, nó làm băng hoại khối đoàn kết dân tộc, làm cạn kiệt nhân tài, tiêu hao trầm trọng sinh khí của dân tộc, đồng thời cũng tiếp tục là nguyên nhân sâu xa của tình trạng ngày càng tụt hậu mọi mặt của VN so với các nước láng giềng mà trước 1975 từng thua xa VN (Thái, Miên), hoặc chỉ tương dương miền Nam VN (Nam Hàn, Đài Loan…)
Động thái mà chính quyền CSVN hiện nay đang làm: một mặt dùng bạo lực đỏ và đen để đàn áp những cuộc biểu tình chống xâm lược, chống tham nhũng, chống cướp đất cướp nhà, đàn áp các nhà đối lập, các blogger, các phản kháng của tôn giáo, trí thức v.v.., mặt khác dung dưỡng tham nhũng phá hoại kinh tế, phá sản giáo dục, làm thối nát xã hội, hư hỏng thanh thiếu niên đã tiếp tục làm suy sụp thêm nguyên khí đất nước, và làm tê liệt khả năng liên minh với các siêu cường như Mỹ, Nga để có đối trọng với sức mạnh kinh tế quân sự áp đảo của Tàu.
Hiện tượng bế tắc tương lai và suy yếu toàn diện vừa về lãnh đạo, vừa về văn hóa, xã hội, kinh tế và quốc phòng của Việt Nam chứng tỏ rằng Tàu đã thành công trong sách lược làm Việt Nam suy thoái triệt để. Mối nguy hiểm lớn nhất là ở chỗ bọn xâm lược không cần phải trực tiếp ra mặt, mà lại sai khiến được chính nhà cầm quyền Việt để thực hiện việc “giết tiềm lực” (*3): tiêu diệt nhân tài, đàn áp bóc lột nhân dân, phá hoại tiềm lực kinh tế quốc phòng của chính dân tộc mình. Hậu quả sự tự mình phá hoại mình (còn gọi là nội xâm, hoặc tự thực dân) do đó còn triệt để và nghiêm trọng gấp rất nhiều lần so với bị ngoại bang tấn công trực tiếp.
Điều quan trọng mà nhân dân và đất nước đang cần ở những người viết lịch sử là phải vạch rõ cái nguyên nhân sâu xa của mọi hiện tượng suy sụp của đất nước chính là từ âm mưu tiêu diệt tinh thần Việt, nguyên khí Việt nằm trong sách lược ngàn năm bành trướng Đại Hán, thể hiện qua tập đoàn lãnh đạo CSVN kể từ HCM, là tập đoàn đã được khuôn đúc và dung dưỡng để phục vụ chủ nghĩa Đại Hán. Từ đây mới đi đến kết luận dứt khoát là phải giải thể chế độ độc tài đảng trị của CSVN thì mới mong có cơ may thoát khỏi mất nước vào tay Tàu.
Phải làm sao để người trong nước nhìn thấy ngay cái nguy mất nước ở chỗ nào, thì mới có hiệu quả giải độc và giáo dục quần chúng, giải phóng cả nước khỏi nạn nội xâm để chung sức chung lòng chống ngoại xâm cứu nước. Đối tượng quan trọng để vận động chính là những người đang bị áp bức, những người có tinh thần dân tộc trong nước để tạo thành phong trào quần chúng rộng khắp.
Chỉ sợ rằng đến khi mà quần chúng nhân dân, trí thức trong và ngoài nước thấy rõ rệt được bản chất tay sai cho Tàu của những người lãnh đạo đảng CSVN (vốn đã bộc lộ ngay từ những năm 30), đồng thời thấy rõ âm mưu rất thâm độc, rất mực kiên trì và khôn khéo của Tàu để trực tiếp hoặc gián tiếp điều khiển tập đoàn lãnh đạo tay sai đó đưa dần dần đất nước VN vào tình thế buộc phải chấp nhận trở thành phiên thuộc của Tàu, thì đã quá muộn rồi-
II. Lãnh tụ của cuộc chiến vì dân chủ và độc lập dân tộc
Tình hình ở VN hiện nay như nước sôi lửa bỏng, tuy rằng nhân tài VN chưa đến nỗi kiệt quệ, nhất là ở miền Trung và miền Nam do trước đây ở dưới sự kiểm soát của chính quyền Cộng Hòa nên không bị ảnh hưởng của cuộc CCRĐ 1956, trong giới trí thức kể cả ở những thành phần trụ cột của chế độ hầu như đều nhận thấy tính vô năng và suy thoái của chế độ và lãnh đạo sẽ đưa đến nguy cơ mất nước, và đều muốn thay đổi trước khi quá muộn, nhưng mối lo lớn nhất là ở chỗ ta có thể có nhiều Nguyễn Trãi mà không có Lê Lợi, nhiều La sơn phu tử mà không có Nguyễn Huệ… thì đất nước sẽ tan nát, đại nạn dân mình sẽ lớn lắm…
Cho tới nay, trước mắt người dân, chính quyền và Đảng CSVN chỉ còn đủ “nhân tài” để đấu đá tranh chấp lẫn nhau quyền lợi, địa vị, bóc lột nhân dân và làm vừa lòng quan thầy bằng cách đàn áp phong trào đấu tranh yêu nước. Chính quyền CSVN đang trở thành vô năng lực trong bảo vệ chủ quyền và quản trị đất nước. Văn hóa xã hội băng hoại khủng khiếp, giáo dục phá sản đến mức tuyệt vọng, khoa học công nghệ và nền kinh tế sản xuất thì tụt hậu khiến cho Quốc phòng suy yếu, đối sách chính trị thụ động và phụ thuộc vào Tàu mọi mặt đến mức chưa từng thấy trong lịch sử. Đất nước suy yếu đến như vậy mà không rơi vào tay ngoại bang thì mới là chuyện lạ. Không khó để nhận thấy rằng tới nay trong sách lược bành trướng thôn tính VN, Tàu đã hầu như thành công trong 2 mục tiêu: Mục tiêu căn bản là biến miền Bắc vĩnh viễn trở thành lá chắn an toàn che chở phía Nam nước Tàu, giống như Bắc Hàn là lá chắn phía đông bắc- Mục tiêu thứ 2 là thôn tính Việt và Đông Dương để bành trướng xuống Nam Á, tiến ra biển Đông tranh dành ảnh hưởng với Mỹ và Nga, từng bước thực hiện giấc mộng bá chủ thế giới.
Suy nghĩ theo hướng đó, thì thấy rõ là hành động liên tục trấn áp dân và liên tiếp nhượng bộ Tàu vừa lén lút, vừa công khai của nhà cầm quyền VN chứng tỏ Tàu đã nắm được tập đoàn cầm quyền CSVN, nắm được bộ máy công an… như vậy chính là Tàu đang cai trị VN. Mọi động thái phản kháng chiếu lệ của nhà cầm quyền CSVN đối với hành vi xâm lược, ngang ngược của Tàu ở biển Đông và biên giới phía Bắc chỉ là để che mắt thiên hạ để chuẩn bị giao hết căn nhà VN cho chủ mới là Tàu…
Tuy nhiên, bên này biên giới mong manh của sự bi quan trước hiểm họa mất nước vào tay Tàu, qua các phong trào chống đối ngày càng lớn mạnh của tuổi trẻ và người dân trong nước, và xu thế dân chủ hóa trên thế giới, chúng ta vẫn có thể tin vào tiền đồ của một dân tộc đã chiến đấu mấy ngàn năm để tồn tại. Ngày nay không còn là thời kỳ của Hung nô và Mông cổ nữa và nước Việt Nam sẽ không cô đơn trong trận chiến tự vệ, các lân bang và siêu cường khác sẽ không để cho Tàu, một tên to xác nhưng man rợ, hành xử ngang ngược, muốn làm gì thì làm đối với sự toàn vẹn lãnh thồ của Việt Nam vốn là 1 phần thiết yếu đối với nền hòa bình và ổn định ở Đông Nam Á và thế giới- Đến một lúc nào đó không xa, khi thời cơ đến, sẽ có một bậc anh hùng xuất đầu lộ diện để lãnh đạo toàn dân trong cuộc chiến chống xâm lược, dành lại độc lập và chủ quyền cho đất nước.
Thời cơ đó sẽ đến khi nước Tàu phải đối mặt với nguy cơ động loạn nội bộ, vì xã hội rộng lớn và nền kinh tế chỉ huy tập trung của Tàu vốn có nhiều bất cập to lớn mà một hệ thống chính trị độc đoán độc tài phản dân chủ không thể giải quyết nổi. Với những nhược điểm có tính cơ cấu của một nước lớn, đất không nuôi nổi dân, Tàu đang bị buộc phải phát triển theo hướng bá quyền cổ điển, Tàu sẽ bị lôi kéo vào cơn lốc xoáy của những tranh chấp quốc tế, và chạy đua vũ trang với Mỹ. Tình trạng nổ tung giống như Liên Xô trước đây đối với Tàu do đó không thể tránh khỏi. (*4)
Một khi Tàu bị suy thoái kinh tế, biến động xã hội và chính trị sẽ rất lớn, sẽ có những cuộc nổi dậy của những dân tộc bị áp bức ở Tây Tạng, Nội Mông, Tân Cương… Tình thế lúc này sẽ tạo điều kiện cho những phong trào đấu tranh ở VN phát triển rộng đến mọi thành phần dân chúng, nhất là nông dân, dân nghèo thành thị, và quân đội, là những thành phần bị chính quyền và đảng CSVN bóc lột đến tận cùng.
Những phản ứng biểu lộ lòng yêu nước trong nhân dân, nhất là tầng lớp trí thức và sinh viên học sinh nay đã vượt quá mức độ dư luận, tuyên ngôn tuyên cáo, sáng tác văn thơ yêu nước, những bản nhạc yêu nước. Phản ứng của người dân Việt trong nước tỏ ra có tiềm năng lan rộng và quyết liệt dù bị đàn áp và kiểm soát chặt chẽ. Tuy nhiên, với kỹ thuật kìm kẹp đàn áp tinh vi của nhà cầm quyền tay sai và sự tác động, can thiệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp của Bắc Kinh, cuộc cách mạng vì dân chủ và độc lập dân tộc trong nước chỉ có thể thành công khi có được 1 lãnh tụ thực sự đáp ứng được khát vọng sinh tồn của dân tộc, có khả năng tập hợp được quần chúng, hoặc thành lập được 1 lực lượng kháng chiến đủ năng lực du kích chiến để tồn tại và phát triển khi có cơ hội. Người lãnh tụ này chỉ có thể xuất hiện và hoạt động hiệu quả khi rối loạn xã hội hoặc bạo loạn xảy ra ở khắp nơi mà chính quyền tay sai không còn kiểm soát nổi. Hiển nhiên là một lãnh tụ của phong trào quần chúng phải là người của quần chúng, và phải là 1 chiến sĩ đang cùng đấu tranh với chiến hữu và đồng bào mình.
Quan sát tình thế hiện nay, nhân dân VN bị chính quyền CS tay sai khống chế không khác gì thời dưới ách đô hộ của Tàu hoặc Tây. Một lãnh tụ giải phóng dân tộc nếu có chắc chắn là chưa thể lộ diện, và hiện nay chưa một ai biết đến, vì nếu lộ diện, sẽ bị tiêu diệt hoặc vô hiệu hóa ngay. Đến lúc thời cơ thuận tiện, vị lãnh tụ này sẽ xuất hiện từ nhân dân như Ngô Quyền, Lê Lợi, Quang Trung, từ lực lượng vũ trang như Lê Đại Hành, hoặc từ chính quyền đương đại như Lý Công Uẩn, Trần Hưng Đạo…
Thuận lợi lớn nhất và căn bản cho sự tồn tại của dân Việt, của nước Việt hiện nay về tinh thần vẫn là niềm tin vào sức sống dân tộc, và về lực lượng vật chất, nhân sự vẫn là tầng lớp thanh niên sinh viên trí thức, quân nhân, công nhân, nông dân bị bóc lột, và dân nghèo thành thị, đồng thời với lực lượng việt kiều, trí thức, khoa học gia, công kỹ nghệ gia có mặt trên khắp các nước lớn trên thế giới, nhất là ở Mỹ, Pháp, Úc, Canada… là những nơi người Việt đang từ từ tụ họp với nhau thành những cộng đồng dân số đủ đông để có sức mạnh chính trị thông qua lá phiếu, và tổ chức được những hội đoàn sinh hoạt để tương trợ nhau hoặc bảo tồn văn hóa Việt- Thuận lợi này không thấy có ở những dân tộc khác đang bị Hán hóa, đang bị CS Tàu đàn áp như Nội Mông, Tây Tạng, Tân Cương.
Trên căn bản những thuận lợi lớn lao đó, nếu tính cho một kế sách lâu dài và hiệu quả để chống lại nạn bị Hán hóa và mất nước, rõ ràng là phải củng cố các cộng đồng người Việt, chống chia rẽ, phân hóa nội bộ và âm mưu phá hoại của nhiều phía và phe nhóm, đồng thời thống nhất mục tiêu, nội dung và phương pháp hành động trong các công tác chung, điều này khó thực hiện vì chưa có thống nhất chỉ huy (chưa có lãnh tụ?) và vì bối cảnh chính trị hiện nay khiến không thể có yểm trợ từ chính quốc như các sắc dân khác. Trong điều kiện hiện nay, công việc khẩn cấp và quan trọng nhất là hướng mục tiêu hoạt động cộng đồng vào việc xây dựng thế hệ kế thừa, bằng cách khuyến khích, giúp đỡ những chương trình, kế hoạch duy trì và phát huy truyền thống, văn hóa Việt cho cộng đồng người Việt ở nước ngoài, dạy lịch sử Việt, dạy tiếng dạy chữ Việt và văn hóa Việt cho thanh thiếu niên Việt ở nước ngoài, như lời nhà học giả Phạm Quỳnh đã nói: “Tiếng Việt còn, thì nước ta còn”. Mặt cần thiết khác là đầu tư hoặc ủng hộ các chương trình nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài, nhất là nhân tài, trí thức trong nước, các chương trình cứu trợ trẻ nhỏ, các nạn nhân của thiên tai, nghèo đói và bất công, kể cả trợ giúp thân nhân bạn bè đang gặp khó khăn, bao dung và giúp đỡ tinh thần các du học sinh và lao động hợp tác từ VN qua nếu họ có thành tâm và thiện chí hòa nhập v.v… Kết quả của những chương trình này không những đáp ứng về mặt tình cảm và nhân đạo, mà còn là giải pháp khả thi và hiệu quả duy nhất để thực hiện đoàn kết dân tộc, bồi dưỡng và phát triển nguyên khí dân tộc.
Việc ủng hộ các chương trình Cứu trợ Y-tế Xã-hội và nâng cao đời sống, nâng cao dân trí cho đồng bào trong nước dù chỉ đơn giản là vì mục đích nhân đạo, trước mắt có thể hoặc đã bị không ít người chống đối, sự chống đối này có lý do chính đáng, là vì tiền bạc vật phẩm cứu trợ cũng đã rơi nhiều vào tay tham nhũng ở VN, và phải làm những việc mà đáng lẽ là bổn phận của chính quyền VN. Tuy nhiên, đấu tranh để cấm vận hoặc cô lập hoàn toàn VN cũng không phải là biện pháp khả thi và hiệu quả. Khách quan nhận xét, những nước như Bắc Hàn rất cô lập và nghèo đói thì lại càng lệ thuộc Tàu, và xem như Cuba, bị cấm vận trên 50 năm nay cũng đâu có sụp đổ? chỉ có dân là tàn mạt thôi. Đồng thời phải tự hỏi xem, thời xưa nếu không có sẵn Nguyễn Trãi và những nhân tài vật lực trong nhân dân, thì vua Lê Lợi lấy ai giúp đỡ để chiến đấu chống giặc Minh suốt 10 năm gian lao để cởi ách nô lệ cho dân ta? và vua Quang Trung làm sao chiến thắng giặc xâm lược Mãn Thanh một cách thần tốc nếu không có sẵn tướng giỏi, quân khỏe?
Tháng 6-2013
________________________
Chú thích:
(*1) Nhìn lại cuộc Cải cách ruộng đất, Bùi Tín: Những bài học còn nóng hổi -
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8440&rb=0401
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8440&rb=0401
(trích): “….Trong CCRĐ nông dân Việt Nam đã chịu bao nhiêu tổn thất? Theo thống kê nội bộ của ĐCS (chưa được công khai hóa), ở những vùng đã làm CCRĐ: … Vậy là tính sơ sơ, số nạn nhân trực tiếp nói chung lên đến nửa triệu con người.
- Chưa hết, theo thống kê nội bộ, trong chỉnh đốn tổ chức được tiến hành ở 2.876 chi bộ ĐCS gồm có 15 vạn đảng viên, đã có đến 84.000 đảng viên bị xử trí (bị tù, tra tấn, xỉ vả, bị giết) chiếm 47%. Con số khủng khiếp này – nhiều hơn số địa chủ bị đấu tố – đã được giữ rất kín. Tôi có những bạn thân, đồng đội cấp trung đoàn (hồi ấy chưa có quân hàm) là trung đoàn trưởng, tỉnh đội trưởng… bị đánh rụng hết răng, mù mắt, gẫy chân; một số khi sửa sai thì đã bị lao phổi nặng do phải nằm đất ẩm, chỉ có manh chiếu rách. Số đảng viên bị tra tấn còn tàn khốc hơn dân thường vì bị coi là phần tử thù địch chui vào đảng để phá từ bên trong. Hầu hết là đảng viên trí thức, có trình độ học vấn khá. ….” (ngưng trích).
* Xem thêm: Hồ Chí Minh và Cải Cách Ruộng Đất. Đại Nghĩa:
http://www.danchimviet.info/archives/35479
http://www.danchimviet.info/archives/35479
“Ông Hoàng Tùng, nguyên Tổng Biên tập báo Nhân Dân (1954-1982) kể lại trong chuyện “Bí mật HCM” cho chúng ta thấy được sự nô lệ của ông Hồ và đảng Lao Động Việt Nam (tiền thân của đảng CSVN) như thế nào: “Mùa hè năm 1952 Mao Trạch Đông và Stalin gọi bác sang, nhất định bắt phải thực hiện CCRĐ. Sau thấy không thể từ chối được nữa, bác mới quyết định phải thực hiện CCRĐ…. Mục đích của họ không phải là CCRĐ mà là đánh vào đảng ta…
Ngay sau khi Bác quyết định cải cách ruộng đất, Trung Quốc đã cử các đoàn cố vấn sang. Đoàn Cố vấn Cải cách ruộng đất do Kiều Hiểu Quang, phó bí thư Tỉnh ủy Quảng Tây, phụ trách”.
* Xem thêm: Bên Thắng Cuộc, Huy Đức, NXB OsinBook, California, USA 2012, trg 255 “… Cùng với cải cách ruộng đất, chiến dịch “Chỉnh đốn tổ chức Đảng và chính quyền” mà Hồ Chủ tịch ca ngợi trong báo cáo trước Hội Nghị Trung ương 5 cũng đã gây tổn thương nặng nề cho đảng”.
(*2) Hồi ký Trần Quang Cơ, Chương 1- http://www.diendan.org/tai-lieu/ho-so/hoi-ky-tran-quang-co/hoiky-tqc-ch-1
“… tôi thật sự đau xót vị ta đã bỏ lỡ mất cơ hội củng cố thế đứng của Việt Nam trong hoà bình để tập trung phát triển đất nước sau bao năm chiến tranh, lỡ cơ hội san bằng khoảng cách với các nước cùng khu vực. Trong tập hồi ký của mình13, Lý Quang Diệu đã nhận xét: “Năm 1975 thành phố Hồ Chí Minh có thể sánh ngang với Bangkok. Nhưng nay (năm 1992) nó tụt lại đằng sau tới hơn 20 năm…”
(*3) Xem: Chính Đề (Tùng Phong & Ngô Đình Nhu) http://phamthientho.wordpress.com/2011/07/30/1888/
“… Liên tục, và lúc này hơn lúc nào hết, nạn ngoại xâm vẫn đe dọa dân tộc Việt Nam. Để duy trì ách thống trị của mình, các cường quốc xâm lăng thường áp dụng,đối với các dân tộc bị trị, nhiều biện pháp, tuy có khác nhau về hình thức, nhưng chung qui vẫn thuộc hai loại chính:
* Ngăn ngừa không để cho các quyền lợi kinh tế thuộc vào tay người bản xứ.
* Kiềm hãm không để cho dân trí phát triển.
Các loại biện pháp thứ nhứt nhằm mục đích tiêu diệt tất cả các phương tiện vật chất của người bị trị.
Các loại biện pháp thứ hai nhằm mục đích tiêu diệt những người có khả năng xửdụng các phương tiện vật chất trên, nghĩa là các nhà lãnh đạo xứng danh.
Đối với các dân tộc bị trị hai loại biện pháp trên đều có những hậu quả vô cùng thảm khốc…
Vì vậy cho nên, đối với một quốc gia mà nền độc lập bị đe dọa hay đã mất, thì phương pháp hữu hiệu nhứt và điều kiện thiết yếu nhứt để chống lại ngoại xâm là nuôi dưỡng và phát triển sự lãnh đạo.
Trong thực tế, nuôi dưỡng và phát triển sự lãnh đạo có nghĩa là tạo hoàn cảnh thuận lợi để cho cái tinh túy của tập thể hun đúc nên thiểu số lãnh đạo xứng danh…
Như thế thì, tới đây, chúng ta đã làm sáng tỏ được ba điểm:
1. Việt Nam của chúng ta là một nước nhỏ và yếu lúc nào cũng bị nạn ngoại xâm đe dọa.
2. Trong công cuộc chống ngoại xâm, một khí giới hữu hiệu nhứt là phát triển lãnh đạo.
3. Trong công cuộc phát triển lãnh đạo, điều kiện thiết yếu cần được thỏa mãn là: Thiểu số lãnh đạo phải thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng…”
* Xem thêm: Huyền thoại Hồ Chí Minh- Trần Gia Phụng (Đàn Chim Việt- 20/3/2013):
“Việt Minh thủ tiêu hàng loạt các đảng viên Quốc Dân Đảng, các nhà trí thức khác, và hàng ngàn tín đồ đạo Cao Đài.(5) Việt Minh thủ tiêu tất cả những ai không theo chủ nghĩa CS và có thể tranh quyền với Việt Minh, từ trung ương, ở các thành phố lớn, đến những đơn vị nhỏ nhất ở các làng xã, dù họ là những người yêu nước hay là những nhân tài của đất nước. Việt Minh gọi hành động nầy là “giết tiềm lực”, tức giết những người có tiềm lực nguy hiểm cho CS về sau.”
(*4) Xem The coming collapse of China, Gordon G. Chang 2001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét