Mặc dù chúng ta tự hào kinh tế Việt Nam đang duy trì tốc độ tăng cao trong khu vực, song vì quy mô GDP khoảng hơn 150 tỷ USD, khá nhỏ hơn so với các nước trong khu vực. Tuy từ năm 2008, Việt Nam đã thoát khỏi nước nghèo, nhưng khoảng cách về GDP bình quân đầu người so với các nước trong khu vực còn lớn và có nguy cơ bị giãn ra.
Năm 2014, GDP bình quân đầu người của Việt Nam 2.052 USD, gấp 21 lần năm 1990, nhưng chỉ tương đương với Malaysia vào năm 1993, Indonesia năm 2008, Philippines năm 2010, Hàn Quốc năm 1982.
Hiện nay, GDP bình quân đầu người của Việt Nam chỉ bằng 3/5 Indonesia, 2/5 Thái Lan, 1/5 Malaysia, 1/14 Hàn Quốc và bằng 1/27 Singapore. Đồng thời, xét trên góc độ GDP bình quân đầu người, Việt Nam đi sau Hàn Quốc khoảng 30-35 năm, Malaysia 25 năm, Thái Lan 20 năm…
Sự tụt hậu của nền kinh tế càng rõ nét hơn khi con số thống kê cho thấy chất lượng và hiệu quả của tăng trưởng có rất nhiều vấn đề đáng lo ngại. Nổi bật nhất là chi phí đầu vào cho sản xuất của Việt Nam có xu hướng tăng dần qua các năm và ở mức cao so với các nước.
Nếu như năm 1989, tỷ lệ chi phí trung gian so với giá trị sản xuất của toàn bộ nền kinh tế là 43,8%, thì đến năm 1996 tỷ lệ này tăng lên 52,3%. Tỷ lệ tiếp tục tăng đều lên 56,5% vào năm 2000 và 64,1% vào năm 2007. Cho đến năm 2012, ước tính chi phí trung gian đã chiếm tới trên 70% giá trị sản xuất. Trong khi đó, các nước khu vực tỷ lệ này chỉ ở mức dưới 50%.
Trong nhiều năm qua, nền kinh tế vận hành theo mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào yếu tố vốn, nhưng hiệu quả đầu tư lại thấp. Giai đoạn 2001-2014, tăng trưởng kinh tế dựa vào yếu tố vốn tới 67,9%. Tuy nhiên, hiệu quả đầu tư thấp thể hiện ở hệ số ICOR cao và tăng dần qua các thời kỳ. Giai đoạn 2001-2005, để tạo ra 1 đồng GDP Việt Nam phải đầu tư 4,88 đồng, thì tới giai đoạn 2011-2013, con số này đã là 6,99 đồng.
Do tăng trưởng dựa vào vốn, tỷ lệ tiết kiệm so với GDP luôn thấp hơn tỷ lệ đầu tư so với GDP và đang có xu hướng giảm dần. Điều này đồng nghĩa Việt Nam phải đi vay nước ngoài để đầu tư. Tình trạng bội chi ngân sách và nợ công đang có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây. Trong khi đó, tăng thu ngày càng thấp hơn tăng chi, tăng chi đầu tư thấp hơn tăng chi thường xuyên…
Một nghịch lý khác là nền kinh tế cũng tăng trưởng dựa nhiều vào yếu tố lao động, song tốc độ tăng năng suất lao động lại giảm sút. Hậu quả là cho tới nay năng suất lao động của Việt Nam vẫn ở mức thấp so với các nước trong khu vực, và khoảng cách lại ngày càng có xu hướng tăng lên.
Theo tính toán của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế CIEM, năng suất lao động hiện nay có xu hướng dài hạn là đi xuống. Bên cạnh đó, tăng năng suất lao động chủ yếu không phải vì đổi mới công nghệ, nâng cao kỷ luật lao động, mà nhờ chuyển dịch lao động từ ngành có năng suất thấp sang ngành có năng suất cao hơn, trong khi tăng năng suất nội ngành rất thấp.
Trước bối cảnh đó, CIEM cho rằng vì nguy cơ tụt hậu là rất lớn, nếu tốc độ tăng trưởng chỉ khoảng 5% như hiện nay thì đến 2035 GDP bình quân đầu người của Việt Nam mới bằng 75% của Trung Quốc, 83% của Thái Lan hiện nay.
Thành Long
(Đại Kỷ Nguyên VN)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét