Pages

Thứ Sáu, 12 tháng 8, 2011

Đâu là nguyên nhân sâu xa và tham vọng để Trung Cộng có âm mưu độc chiếm Biển Đông?

Có rất nhiều bài báo của các nhà phân tích hàng đầu thế giới cho rằng, sở dĩ Trung Quốc âm mưu động chiếm Biển Đông chủ yếu xuất phát từ nguồn lợi dầu mỏ nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của Trung Quốc trên đường vươn tới trở thành một siêu cường, thậm chí còn muốn thay Mỹ để thống trị thế giới trong tương lai.
Theo tôi, nghĩ như vậy là đúng nhưng chưa đủ.
Chúng ta đều biết rằng, tham vọng “mở mang bờ cõi” luôn luôn là khát vọng và đã trở thành truyền thống trong lịch sử Trung Quốc; chẳng thế mà Trung Quốc nơi sản sinh ra môn cờ vây, mà mục đích duy nhất của ván cờ là: chiếm được nhiều “đất”, càng rộng càng tốt…



Ngay sau khi đánh bật Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch và đẩy Tưởng ra đảo Đài Loan, chính quyền của Đảng cộng sản Trung Quốc đã vẽ nên tấm bản đồ “Sơ lược lịch sử Trung Quốc hiện đại”; và như các bạn đã thấy, trong tấm bản đồ nói trên được in trong cuốn “Sự thật quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua”, Trung Quốc còn muốn lãnh thổ của mình gồm: một phần lớn vùng viễn đông trung Trung Á của Nga; toàn bộ nước Triều Tiên (Bắc Hàn, Nam Hàn), cùng với Bu Tan, Miến Điện, Nê Pan, Thái Lan, CPC, Lào, Việt Nam… và còn kéo tận xuống Malaysia, đồng thời chiếm luôn eo biển Malaca.
Tuy nhiên, việc có thực hiện được cuồng vọng như tấm bản đồ trên hay không còn tùy thuộc vào tình hình thế giới trong tương lai; nhưng luôn luôn cảnh cáo thế giới, và đặc biệt với các nước lân bang của Trung Quốc rằng, người Tàu có mưu đồ thực hiện âm mưu với khoảng thời gian tính đến cả hàng nghìn năm.
Có một điều chắc chắn để khẳng định rằng, nếu trong hiện tại, Trung Quốc có sức mạnh vượt lên trên Mỹ về tiềm lực quân sự, thì than ôi, không chỉ Biển Đông mà có thể là cả Việt Nam và Lào như được báo trước là sẽ bị sáp nhập vào Trung Quốc trong tương lai gần.
Hiện tại, mặc dù vẫn còn rất sợ Mỹ, chưa thể đối đầu với Mỹ… nhưng Trung Quốc đã muốn xé bỏ Công ước của Liên Hợp quốc về luật biển (UNCLOS 1982) đã được chính Trung Quốc ký kết; thì rõ ràng, đến khi trở thành siêu cường số 1 thống trị thế giới thì việc thực hiện tham vọng lãnh thổ như bản đồ nói trên là hoàn toàn nằm trong khả năng của người Trung Quốc.
Nói như vậy để thấy được nguy cơ đến từ sự phát triển của Trung Quốc đối với Việt Nam.
Trở lại với vấn đề chính là: Đâu là nguyên nhân sâu xa để Trung Quốc có âm mưu độc chiếm Biển Đông?
Để ngắn gọn, theo tôi, có mấy nguyên nhân (động lực) chính như sau:
1. Nhu cầu về dầu mỏ chỉ là bước tính trong ngắn hạn của Trung Quốc, mặc dù nhu cầu về dầu mỏ là vấn đề (yếu tố) quyết định để trong vòng 20-30 năm tới Trung Quốc bằng mọi biện pháp nhằm đạt đến vị trí số một thế giới cả về tiềm lực kinh tế và quân sự.
2. Nếu độc chiếm được Biển Đông thì Trung Quốc sẽ đạt được:
a. Chiếm được nguồn thủy sản quan trọng để duy trì sự ổn định của Trung Quốc (đánh bắt, nuôi trồng thủy sản, giải quyết công ăn việc làm cho hàng chục vạn người trên một vùng biển rộng lớn…), không chỉ đáp ứng cho 1,40 tỷ người hiện tại mà có thể là 2 tỷ người trong vòng 50 năm tới.
Trong khi biến đổi khí hậu sẽ là thách thức lớn của nhân loại trong tương lai, theo đó, hàng triệu km2 lục địa của Trung Quốc bị sa mạc hóa do nạn khai thác và hủy hoại môi trường hiện nay gây ra, thì ổn định cuộc sống cho 2 tỷ dân từ nguồn lợi biển sẽ là vấn đề sống còn Trung Quốc (ổn định về chính trị, từ đó hy vọng không bị chia tách thành nhiều quốc gia nhỏ mà Trung Quốc đã xâm lược, sáp nhập vào lãnh thổ của Trung Quốc từ trước đây)…
b. Có một điều chắc chắn, khi đã độc chiếm được Biển Đông, Trung Quốc sẽ thiết lập lại luật hàng hải quốc tế, mà theo đó, khi tàu bè quốc tế đi vào vùng biển này ắt phải “nộp thuế” cho Trung Quốc; đây sẽ là nguồn thu đáng kể nuôi sống nhân dân Trung Quốc; bởi vì Biển Đông là một trong những đường hàng hải nhộn nhịp nhất thế giới như mọi người đã biết.
c. Độc chiếm được Biển Đông, Trung Quốc cũng khống chế được Nhật Bản; bởi vì kinh tế và sự phát triển của quốc gia Nhật Bản phụ thuộc rất lớn vào tuyến hàng hải quan trọng này.
Cần nhớ rằng, Trung Quốc chưa từng có ý từ bỏ trả thù Nhật Bản, đây là nỗi nhục lớn nhất của người Trung Quốc trong lịch sử hiện đại. Nếu như Việt Nam là đích đến của Trung Quốc trong việc sáp nhập lãnh thổ, đồng hóa, tiêu diệt giống nòi Lạc Việt thay bằng dòng máu Hán, thì với Nhật Bản là “rửa hận” vì đã hạ nhục Trung Quốc trong chiến tranh thế giới thứ II.
Làm suy yếu Nhật Bản, đồng thời vươn lên làm bá chủ nhằm có cơ hội trả thù nước Nhật… là một bước đi âm thầm, lặng lẽ, kiên trì… của giới lãnh đạo Trung Hoa ở bất kỳ các giai đoạn nào của lịch sử kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II trở về sau này.
Cách đây hai năm, con trai đầu của tôi khi đó đang chuẩn bị vào đại học, đã mấy lần cháu nói với tôi về nhận định của cháu rằng: Ba ạ, khoảng 30 năm nữa, Trung Quốc sẽ gây nên một cuộc chiến tranh rất tàn khốc, trong đó, một trong những mục tiêu quan trọng của họ là tiêu diệt khoảng 60-70% nhân dân Việt Nam ở thời điểm đó.
Có thể nhiều người cho rằng, đây là ý tưởng quá xa vời; tuy nhiên, theo tôi, với giới lãnh đạo Trung Quốc thì không có gì là họ không dám làm. Ngay cả nước Mỹ xa xôi mà họ còn muốn dùng vũ khí sinh học để hủy diệt, để đưa người Hán sang đó định cư… mặc dù có thể phải hy sinh một nửa số dân Trung Quốc, tức là khoảng 600-700 triệu người, như tướng Trì Hạo Điền – Bộ Trưởng Quốc phòng Trung Quốc đã từng “mơ ước” cách đây mấy năm khi y còn sống.
Lịch sử Trung Quốc đã cho thấy, hiếm có một lãnh đạo thế giới nào từ cổ đến kim mà dễ dàng ra các quyết định “thí” dân như các lãnh chúa Trung Hoa xưa, miễn là thực hiện được ý đồ “thiên tử”; và ngay trong lịch sử hiện đại Trung Quốc, chính Mao Trạch Đông, y là hiện thân cho sự khẳng định này.
Trung Quốc hiện đã bỏ chế độ “mỗi gia đình chỉ có một con”, chuyển sang thực hiện mối gia đình được phép có 2 con; đây là hiểm họa không chỉ chính bản thân của Trung Quốc mà là hiểm họa trực tiếp đối với Việt Nam và Lào.
Không bao lâu nữa, Lào sẽ như là một tỉnh của Trung Quốc, hoặc chí ít, dân số Lào sẽ là thiểu số ngay chính trên quê hương của họ.
Nếu Lào còn duy trì chế độ một Đảng là nhân dân cách mạng Lào như hiện nay thì việc mua chuộc Bộ Chính trị của độc đảng duy nhất tại Lào là việc làm dễ như trở lòng bàn tay của người Trung Quốc, và Trung Quốc đã thành công, như họ đã thực hiện đối với Miến Điện; mà đến nay, chính người Miến Điện đã cay đắng nhận thấy, miền Bắc Miến đã như là một quận thuộc Trung Hoa.
Than ôi, nòi giống Lào sẽ như là Tân Cương, Tây Tạng… trong tương lai gần. Một nguy cơ đe dọa Việt Nam từ phía Lào đã biết trước mà không sao thoát ra được.
Hiện tại, do chính sách “mỗi gia đình chỉ có một con” từ gần 30 năm qua, hậu quả là Trung Quốc hiện đang “dư thừa” 40-50 triệu đàn ông; Lãnh đạo máu lạnh ở Bắc Kinh cũng đang muốn “thí” bớt số lượng người này nhằm cân bằng giới tính bằng một cuộc chiến tranh, tuy nhiên, do chưa thể thắng Mỹ trong cuộc chiến trước mắt, cho nên Trung Quốc chưa thể thực hiện được.
Như vậy, với chính sách trở lại mỗi gia đình được phép có hai con, thì trong vòng một hoặc hơn một thế hệ nữa (25-30 năm), thì dân số Trung Quốc khoảng gần 2 tỷ cũng không có gì là ngạc nhiên cả.
Khi đó, việc gây nên một cuộc chiến tranh, vừa để “thí” bớt dân số nội địa tại Trung Quốc; vừa là để tiêu diệt nòi giống Việt Nam và Lào nhằm “phân bố lại dân cư” theo bản đồ “Sơ lược lịch sử Trung Quốc hiện đại” như đã nói trên đâu có gì là ngạc nhiên.
d. Độc chiếm được Biển Đông là chặn đứng được tương lai phát triển của người Việt, càng có cơ hội thâu tóm, biến Việt Nam phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc… tiến tới sẽ làm một cuộc cách mạng “giải phóng Việt Nam” như đã từng đối với Tây Tạng sau ngày Mao nắm chính quyền.
Trong vòng 20 năm qua, Trung Quốc đã từng bước nô dịch Việt Nam bằng mọi cách (đặc biệt như qua đường phim ảnh) và có vẻ như từng bước một Trung Quốc đã đạt được thành công; việc hơn 700 tờ báo lớn nhỏ của nước ta buộc phải “im hơi lặng tiếng” trước vận mệnh dân tộc trong suốt một thời gian dài và đang diễn ra hôm nay là một bằng chứng của nguy cơ này. Đến nỗi, trong bài viết “Lời ai điếu cho một nền báo chí nô bộc” của nhà bào kỳ cựu Lê Phú Khải, tác giả đã phải thốt lên: Tôi không ngờ các nhà báo lão thành mà xưa nay tôi từng ngưỡng mộ lại có thể vô cảm đến thế, dối trá đến thế, hèn hạ đến thế!
Hỡi ôi, đến các “nhà báo lão thành”, chắc hẳn trong số các vị đã có không ít người đã một thời “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, mà đến nay lại trở nên vô cảm, dối trá, hèn hạ…, qua đó để chúng ta biết, sự nô dịch của Trung Quốc đối với Việt Nam đã thành công đến mức nào!
Đấy là còn chưa kể đến còn có hàng ngàn người vì đang si mê tiền bạc…, đã để Trung Quốc lũng đoạn gần như toàn bộ nền kinh tế nước nhà, rồi đến các “làng Trung Hoa”, thậm chí là Đông Đô Đại Phố… đã và đang được thiết lập gần như ở khắp các tỉnh thành trên toàn cõi Việt Nam…
Xem ra, mô hình này đang báo động điều mà Trung Quốc đã thực hiện cách đây hơn 35 năm như đã từng thực hiện đối với dân tộc CamPuChia; tức là xây dựng một đội ngũ tay sai người Việt, để chính người Việt tự ra tay tiêu diệt người Việt, như Pol Pốt – Iêng xa ry đã tiêu diệt gần 50% dân số của dân tộc mình chỉ sau hơn 4 năm từ 1975-1978 (diệt 2,7 triệu người, trong tổng số gần 7 triệu dân CPC ngày đó).
Liệu dân tộc Việt Nam với khí phách hàng ngàn năm đánh tan phương Bắc, có kịp thức tỉnh để tự cứu lấy mình?
Như vậy, bằng mọi biện pháp, phải “cắt” bằng được “đường lưỡi bò”, đó chính là sự sống còn của người Việt Nam, nếu như không muốn bị “láng giềng hữu nghị” tiêu diệt.
Dân tộc Việt Nam, hãy tự cứu lấy mình trước khi trời cứu!
Nguyễn Hữu Quý

Không có nhận xét nào: