Pages

Thứ Hai, 15 tháng 8, 2011

RỚT HẾT CHIÊU BÀI MẶT NẠ – VIỆT GIAN CỘNG SẢN ĐÃ VONG THÂN TỘT CÙNG

Chương trình Chiến Tranh Nhân Dân Trên Mạng ngày 13-8-2011
–        Trích Diễn Đàn Paltalk VietnamExodus
Năm 1927, Liên Xô cử một tổ đặc nhiệm sang Tàu, chuẩn bị “xuất khẩu cách mạng”, xa hơn nữa về Phương Đông. Tổ đặc nhiệm ấy có 2 người Nga chính hiệu (Doriot, Voline) và một người Nga gốc Việt, đội tên Tàu là Lý Thụy. Tổ này làm việc 3 năm ở Quảng Châu, ngày 6-1-1930 cho ra đời Đảng Cộng Sản Việt Nam. Có thể nói đây là đảng cộng sản thứ hai xuất hiện ở Châu Á (Đảng Cộng Sản Tàu ra đời năm 1921). Cả hai đảng cộng sản này đều là “bộ phận” nằm trong tổ chức cộng sản toàn thế giới, có  tên là Quốc Tế 3 – hay đệ tam quốc tế – ra đời từ năm 1919. Điều lệ của Quốc Tế 3 có 21 khoản; khoản thứ 14 nói rõ : các đảng bộ của các nước trực thuộc có bổn phận phục vụ quyền lợi Liên Bang Xô Viết – cái nôi của “cách mạng thế giới” – còn gọi chung là “Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa”. Như thế, có thể nói trắng ra rằng đảng cộng sản vn “bẩm sinh” đã là công cụ bành trướng thuộc địa của Đế Quốc Liên Xô.
Đảng csvn ra đời với toàn người Việt Nam, nhưng mục tiêu của Liên Xô là dùng đảng ấy làm công cụ tranh giành thuộc địa với thực dân Pháp ở Đông Dương, cho nên tên đảng phải là Đảng Cộng Sản Đông Dương. Người Việt Nam không có nghĩa vụ gì với dân các nước Miên và Lào – tuy cùng bị thực dân Pháp cai trị – nhưng có “nghĩa vụ quốc tế” làm “cách mạng giải phóng” luôn cho cả hai xứ này, vì “ông chủ” Liên Xô muốn thế. Quốc Tế 3 cho Đảng Cộng Sản Đông Dương ra đời, không phải với tên là Đảng Cộng Sản VN do các sáng lập viên “đề nghị”. Ngày khai sinh cũng không phải là ngày 6-1-1930 – đúng như ngày nó ra đời – mà phải là ngày Quốc Tế 3 cho phép  nó ra đời, “quyết nghị” là 3-2-1930. Lý do đơn giản : nó ra đời được nhờ tiền và chỉ thị từ Liên Xô, do tổ đặc nhiệm đem đến. Tổ ấy gồm 3 công dân Liên Xô, trong đó có một người gốc Việt đội tên Tàu là Lý Thụy, có “tên cúng cơm”  VN là Nguyễn Sinh Cung.
Đảng cộng sản Tàu ra đời năm 1921, tuy là một bộ phận của Quốc Tế 3, nhưng đảng có công lật đổ Mãn Thanh, giải phóng nước Tàu, và đang cầm quyền lúc đó, là Quốc Dân Đảng của Tôn Văn. Cách mạng Tàu của Tôn Văn năm 1911, đi trước cách mạng 1917 Nga đến 6 năm. Tôn Văn chủ trương “liên Nga bài đế” – cấu kết với Liên Xô để chống đế quốc – nên ngay từ đầu, Tàu chưa nằm trong tầm ngắm bành trướng của Liên Xô. Đã thế, cấu kết chưa được bao lâu, hai nhân vật chính đều chết sớm – Lênin năm 1924. Tôn Văn năm 1925 – nên đảng cộng sản Tàu luôn phải chịu lép vế trước Quốc Dân Đảng Tàu, tuy đàn “hậu duệ” của Tôn Văn, từ Tưởng Giới Thạch đến Đặng Tiểu Bình đều do Quốc Dân Đảng Tàu đưa cho Liên Xô đào tạo. Riêng Mao Trạch Đông, phải kể là “cộng sản nội hóa”, không do Liên Xô đào tạo, cũng không ra khỏi nước trước khi nổi bật.
Kiểm điểm lịch sử như thế, để thấy rằng, tuy cùng là bộ phận của Quốc Tế 3, đảng cộng sản Tàu ra đời không là “công cụ bành trướng” của đế quốc Liên Xô, như Đảng Cộng Sản Đông Dương. Dõi theo giòng sinh mệnh của nó, ta  thấy ngày càng rõ căn cước bẩm sinh bán nước của Đảng CS Đông Dương.
1/ “Ta-bạn-thù” theo quyền lợi  và chỉ thị của Liên Xô. – Chỉ ít tháng sau ngày được Liên Xô khai sinh (3-2-1930), với tiền bạc, đào tạo và chỉ đạo của Quốc Tế 3, cộng sản vn “nổi dậy” ở Nghệ An và Hà Tĩnh, làm chủ được nhiều địa phương, tổ chức quyền bính theo mô hình Liên Xô, đặt tên cho nó là “Xô-Viết Nghệ-Tĩnh”. Phong cách bạo ngược của cuộc nổi dậy này không được xã hội Việt Nam ủng hộ. Cuộc nổi dậy thất bại, chủ yếu không vì “thực dân đàn áp”, mà vì chính nông dân không hưởng ứng. Một số cộng sản bị dân địa phương bắt giao cho chính quyền thuộc địa; số cộng sản nòng cốt bỏ chạy sang Lào, rồi sang Xiêm (về sau thành cộng sản Lào và Xiêm). Năm 1936, đảng cộng sản Pháp liên kết với Đảng Xã Hội, thắng cử ở chính quốc. Người Pháp “thực dân”, kẻ thù của “chiêu bài giải phóng dân tộc”, bây giờ trở thành “Pháp dân chủ” (Đảng CS Pháp cũng là một bộ phận của Đệ Tam Quốc Tế), ra lệnh cho chính quyền thuộc địa trả tự do cho các “đồng chí” cộng sản Đông Dương. Cộng sản Đông Dương từ đây hoạt động “công khai, hợp pháp” dưới sự che chở của thực dân Pháp.
Ngày 23-8-1939, Thỏa ước Molotov-Ribbentrop ra đời, Liên Xô và Đức Quốc Xã vẽ lại bản đồ, chia nhau châu Âu, Pháp trở thành “đích nhắm” của Đứ́c Quốc Xã (đồng minh giai đoạn của Liên Xô). Hàng ngũ “ta-bạn-thù” quốc tế xoay chuyển, Pháp thống trị ở Đông Dương bèn “thôi là dân chủ”, trở lại là “thực dân” như cũ. Cộng sản Đông Dương rút vào bí mật, “giương cao” hơn bao giờ hết ngọn cờ “giải phóng dân tộc”.
Ngày 22-6-1941, Hitler bất ngờ tấn công Liên Xô, hàng ngũ “ta-bạn-thù” quốc tế lại xoay chuyển, và “đảng ta” một lần nữa (theo khoản 14 điều lệ Quốc Tế 3), phải “chuyển hướng” theo quyền lợi Liên Xô, to mồm hô hào “diệt phát xít”, trong khi phát-xít Đức còn ở bên Tây, và phát-xít Nhật còn ở bên Tàu. Đến khi Liên Xô bí quá phải cầu cứu Đồng Minh (các đế quốc tư bản không chịu “giẫy chết”), hàng ngũ “ta-bạn-thù” lại xoay, Pháp lại có dịp “thôi là thực dân”, một lần nữa biến thành “Pháp dân chủ”, úm ba la, cùng nhau ta … “diệt phát-xít Nhật”. Tư bản châu Âu giữ mình còn không xong, làm sao cứu nổi “Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Xô” . Phải nhờ đến “tên đầu sỏ đế quốc” Mỹ. Nhưng Mỹ chỉ vui lòng cứu cả các đế quốc tư bản lẫn cộng sản, với điều kiện “cả làng thôi làm đế quốc”. Diệt xong Hitler, tư bản phải nhả hết thuộc địa, nhưng cộng sản thì phải lập tức giải tán Quốc Tế 3. Thế là ngày 15-5-1943, Liên Xô công bố nghị quyết “thôi đóng vai trung tâm điều hợp phong trào cộng sản thế giới”, để các “bộ phận” trở lại hoạt động như trước khi có Quốc Tế 3.
2/ Bẩm sinh tay sai, không thể một ngày không có chủ. Trong tình hình trên, tên Cung ở đâu ? Xoay trở ra sao ?
Vốn là tay giang hồ quốc tế, trong mọi tình huống, tên Cung đủ bản lĩnh để “mưu sinh thoát hiểm” với những thủ đoạn mà y gọi là “chính trị cao”. Ngay từ trước khi theo lệnh Stalin đi làm thông ngôn cho Borodin ở trường quân chính Hoàng Phố của QDĐ Tàu, y đã sớm lo có nhiều bất trắc trong xoay chuyển “ta-bạn-thù” quốc tế, nên luôn giữ “quan hệ tốt” với mọi phía, phòng khi phải “sang hàng, đổi chủ”. Dưới bí danh Tống Văn Sơ, y bị bắt ở Hongkong, được cộng sản Anh tận tình bênh vực và được thả ra. Về lại Liên Xô, y thoát đợt thanh trừng của Stalin, trong khi Borodin, ông chủ của y bị Stalin đầy đi Siberia rồi chết ở đó. Tuy biết Stalin không ưa Mao, nhưng y vẫn coi Mao “vừa là thày, vừa là bạn, vừa là đồng chí”. Ngay từ 1940 (trước khi QT3 giải tán), chóp bu cộng sản VN đâu còn về từ Liên Xô nữa, mà về từ bên Tàu, do y (đổi lốt lần nữa thành Hồ Chí Minh, mặc áo đại cán Tàu, lấy vợ Tàu), đưa sang Diên An (cứ địa chính của Mao) đào tạo. Kể cả với Pháp, y vẫn giữ “đường giây” (qua Lâm Đức Thụ), để có thể mượn tay Pháp triệt các đối thủ cạnh tranh vị thế quốc tế của y (dù đó lả Phan Bội Châu). Khi bị QDĐ Tàu bắt giam vì tình nghi gián điệp, nhờ những quan hệ tốt  chằng chịt ấy mà y đã “thoát hiểm”, lại còn “trúng thầu” công tác gián điệp cho QDĐ, về VN chống Nhật, sau khi đã làm tờ “thú tội cộng sản”, cam kết theo “chủ mới” QDĐ Tàu.
Về lại hang Pắc Bó, nhân khi đồng bào sắc tộc cứu được một phi công Mỹ bị Nhật bắn rơi, y lập tức đoạt lấy phi công Mỹ, đem sang Tàu làm quà ra mắt, xin “dự thầu” làm gián điệp cho Mỹ ở Đông Dương. Trúng thầu, y trở thành “ngọn cờ đầu”, hát vang bài “diệt phát-xít” dưới danh nghĩa “Đồng Minh”. Chính cái danh nghĩa ấy của “ông chủ Mỹ” đã giúp y có “tính chính đáng” – legitimacy – mà cướp quyền ngày 19-8-1945, trở thành chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nhưng “ông chủ Mỹ” ở chính quốc biết rõ y là ai, nên đã không cho y sang Mỹ để được đào tạo, theo đề nghị của toán biệt kích Mỹ đã nuôi dưỡng y mấy năm ở Việt Bắc, sau khi y “trúng thầu” làm gián điệp. Y “sao chép” Tuyên Ngôn Độc Lập Mỹ, cũng không thay đổi được căn cước việt gian cộng sản bẩm sinh. Chính cái căn cước ô nhục ấy (Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh, từ cộng sản Pháp, thành cộng sản Nga, rồi cộng sản Tàu …) đã tạo duyên cớ cho thực dân Pháp trở lại Đông Dương. Chính cái căn cước ấy đã triệt tiêu cơ hội độc lập của Việt Nam sau Thế Chiến II, với cao trào giải thực – décolonisation – khắp thế giới; hầu hết các thuộc địa lấy lại độc lập mà không đổ máu. Lịch sử cộng sản vào VN, là lịch sử máu và nước mắt.
*
Tất cả các chiêu bài, mặt nạ VGCS giương lên bấy lâu, nay đã rữa nát và rơi rụng. Tuyên Ngôn Độc Lập “sao chép Mỹ”, không bịp được Mỹ. Chiêu bài “Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc” mượn của Tam Dân Chủ Nghĩa Tàu, bịp được Tàu QDĐ, nhưng không bịp được dân. Khi Hồ hô hào “không gì quý bằng độc lập tự do”, y đã gian lận “hy sinh” hạnh phúc của dân cho “cái bánh vẽ” độc lập tự do. Chưa thấy độc lập, dân Miền Bắc đã nếm mùi đấu tố, và cố vấn Tàu “chỉ đạo” mọi sự. “Chiến thắng” Điện Biên là chiến thắng của Tàu. Paris 1954, lần đầu Tàu có tiếng nói quốc tế sau khi thua Mỹ ở Triều Tiên năm 1953. Ngọn cờ “kháng chiến chống Pháp” cụt đi một nửa, khi Pháp “thua”, mà “ta” chỉ còn nửa nước. Ngày 30-4-1975, “chiến thắng” là chiến thắng của Liên Xô, làm cho Tàu nổi giận, phải “giáo trừng” VGCS 13 năm, và Đế Quốc Đỏ vỡ ra làm đôi. Câu hỏi “ai thắng ai” của Lê Duẩn, cuối cùng đã có câu trả lời. Năm 1991, nửa Liên Xô của Đế Quốc Đỏ sụp đổ. Lũ “chó mất chủ” ở Hà Nội phải sang Tàu “bán nước để cầu sinh”. Sống thừa từ đó, “đội ngũ tiền phong” của lao động lấy “xuất khẩu lao động” và bóc lột lao động làm lẽ sống. “Đầy tớ của dân” trở thành “vua tập thể”. Biển Đông “nổi sóng”, lòi ra “đảng ta” bán nước từ khuya. Chiêu bài, mặt nạ nào giương lên cũng thành trơ trẽn. Lòng tin đã mất, tính chính đáng cai trị không còn, VGCS càng “đối phó sảng” càng mau chết.


Không có nhận xét nào: