Pages

Thứ Tư, 22 tháng 1, 2014

Ông Lê Hiếu Đằng và những nỗi đau cuối đời


291 copy
Phạm Nhật Bình – Tin ông Lê Hiếu Đằng đang trải qua những giờ phút lâm chung đang làm cho nhiều người rất buồn. Có nhiều lý do để buồn, nhưng có lẽ nỗi buồn lớn nhất là vì cảm được những điều đau lòng nơi một người nhiều tâm huyết như ông Đằng trong những năm tháng cuối đời.

Không đau lòng sao được khi vào những năm tháng cuối đời mình lại phải thừa nhận một sự thật phũ phàng. Đó là biết bao hy sinh đóng góp của mình và rất nhiều đồng đội lại chỉ góp phần tạo ra một tầng lớp thống trị mới, còn khắt khe và tàn bạo hơn cả thời kỳ thực dân Pháp đô hộ. Thêm vào đó, cái gọi là “Chế độ ngụy quyền” mà ông và nhiều đồng đội đã từng cố gắng lật xuống cho bằng được để xây dựng CNXH, lại là chế độ nhiều nhân bản, yêu nước, và có khả năng xây dựng mọi mặt xã hội hơn thể chế Cộng sản chuyên chính hiện nay rất nhiều. Trong suốt gần 40 năm qua, nhân dân tiếp tục sống trong đói nghèo suốt từ thời toàn trị sang đến thời mở cửa; và sống dưới các giá trị con người mà nhân loại đã xác định từ lâu. Chỉ có giai cấp cai trị là thay đổi từ sướng ít trong thời toàn trị lên sướng nhiều và cực giàu trong thời mở cửa.
Không đau lòng sao được khi sau bao công sức đóng góp, đến cuối đời ông chỉ thấy đất nước càng ngày càng bế tắc và thụt lùi. Thụt lùi so với cả nước Miến Điện nghèo nàn, lạc hậu. Sau 40 năm bóp chết sức sống của đất nước dưới gông xích độc tài và vì thế không còn sức chống trả hiểm họa mất chủ quyền vào tay Bắc Kinh, giới độc tài quân phiệt Miến, dù chưa hề vỗ ngực là “đỉnh cao trí tuệ loài người”, cũng còn biết đặt vận mạng đất nước họ lên trên hết. Họ gấp rút chọn con đường dân chủ để đưa đất nước thoát hiểm. Đến cả nước Campuchia, một nước từng bị kéo về tận thời cộng sản nguyên thủy dưới tay Pol Pot và thường bị giới lãnh đạo đảng CSVN coi như chư hầu, cũng đã qua mặt Việt Nam trên con đường dân chủ hóa để thoát khỏi vũng lầy độc tài.
Nỗi đau của ông Lê Hiếu Đằng cùng những đảng viên còn tâm huyết và tự trọng càng lớn khi họ tự nhận ra chính mình cũng phải lãnh một phần trách nhiệm trước tình trạng từng mảng chủ quyền đất nước đang biến mất dần. Từ những cánh rừng đầu nguồn ở biên giới phía Bắc đến vùng Tây Nguyên mang tính chiến lược quân sự đến các vùng biển đảo nhiều tài nguyên đều đã bị giới lãnh đạo của ông Đằng xem là những vùng “đã mất rồi” và nay chỉ phản đối lấy lệ trước mắt dân chúng mà thôi. Đó là chưa kể hàng trăm những khu hoàn toàn biệt lập của “công nhân” Tàu trên khắp nước Việt, đặc biệt tại những vùng hệ trọng chiến lược, cứ tiếp tục mọc lên trước sự làm ngơ hoặc tiếp tay của giới cầm quyền. Những ước hẹn với Tàu trong Hội nghị Thành Đô năm 1990 sẽ giao chủ quyền Việt Nam từng bước và hoàn tất vào năm 2020 (đúng thời hạn 30 năm) không chỉ còn là cơn ác mộng nữa nhưng đã trở thành một phần hiện thực rất lớn rồi.
Nhưng khó ai hiểu hay tin được những nỗi dằn vặt nêu trên nếu không có những bước chân xuống đường biểu tình chống Trung Quốc xâm lược của ông Lê Hiếu Đằng năm 2011 và các lên tiếng của ông từ đó đến nay, đặc biệt là bức thư tính sổ đời mình trên giường bệnh chỉ vài tháng trước đây. Từ sự cảm thông với tấm lòng chân thành của ông, người ta bắt đầu thấy đây là một tấm gương can đảm đáng quí phục. Và càng đáng quí phục hơn nữa khi có những đảng viên cao cấp hơn ông nhiều, biết rõ hơn ông nhiều về các nguy cơ cho đất nước và vai trò tác hại của đảng CSVN, nhưng vẫn không dám lên tiếng hay có một hành động nào xứng đáng, chỉ vì bổng lộc cá nhân và quyền lợi chế độ ban phát cho con cháu họ.
Biết thời giờ của mình không còn nhiều, ông Lê Hiếu Đằng đã nhắn gởi các đảng viên CSVN khác: “Lẽ ra bây giờ phải đoàn kết nhau lại để đấu tranh, phải có dũng khí, nếu ai cũng sợ cho bản thân mình, sợ cho bản thân gia đình mình thì đất nước sẽ ra thế nào, đất nước này ai lo?”.
Ông cũng bộc bạch với bạn hữu trong giới trí thức: “Bao giờ cũng vậy, xã hội nào cũng vậy, thời kỳ nào cũng vậy, nhân sỹ trí thức phải đi đầu, phải giương cao ngọn cờ đấu tranh, phải dũng cảm, đừng có sợ”.
Nhưng liệu những lời kêu gọi tha thiết của ông Lê Hiếu Đằng có rơi vào khoảng không im lặng đáng sợ không? Đặc biệt, thế hệ đảng viên cùng thời với ông Đằng có còn ai chia sẻ những dằn vặt lương tâm này không?
Ngày nay, tại các nước cộng sản Đông Âu và Liên Xô cũ, nhiều đảng viên cộng sản thời đó đang bị chính thế hệ con cháu họ nhìn với ánh mắt khinh bỉ. Những đảng viên ấy từng bảo vệ và bám lấy các chế độ Cộng sản để hưởng lợi lộc cho đến những ngày tháng chót, bất kể sự ác độc và tàn phá của các chế độ này đối với đất nước và dân tộc họ. Ngay cả những lời của các cựu đảng viên này ngày nay chỉ trích các chế độ độc tài cũ cũng chẳng ai muốn nghe vì đã quá trễ và vì thế càng trở nên nham nhở. Liệu cảnh ấy có lại xảy ra tại Việt Nam trong tương lai không? Sẽ có bao nhiêu đảng viên CSVN để quá trễ?
Nhìn vào xu thế của nhân loại và ngay tại vùng Đông Nam Á, rõ ràng thời giờ không còn nhiều. Và có lẽ nay là thời điểm thích hợp nhất để những đảng viên Cộng sản Việt Nam – những người còn muốn giữ lại thanh danh và liêm sỉ đối với bản thân, đối với thế hệ con cháu, và đối với dân tộc — chọn con đường công khai rời bỏ đảng vì vừa chính mình vừa vì đất nước. Đừng để đến khi quá muộn.
Những con người đáng kính trọng như Dương Quỳnh Hoa, Nguyễn Hộ, Trần Độ, Trần Xuân Bách,…dài đến những Huỳnh Nhật Tấn, Huỳnh Nhật Hải, Phạm Quế Dương, Vi Đức Hồi, Phạm Đình Trọng, Nguyễn Chí Đức, Nguyễn Ngọc Diễm Phượng, … và nay Lê Hiếu Đằng, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Đắc Diên đã chọn con đường danh dự đó.

Không có nhận xét nào: